BVB - Chùa Huệ Linh lọt thỏm giữa rừng
bạch đàn trên sườn núi. Nhóm hành hương
chúng tôi len lỏi theo con đường mòn ngoằn ngoèo, phủ kín lá khô lên chùa một
buổi chiều mùa khô hun hút gió Lào. Còn cách khá xa đã nghe tiếng chuông và tiếng
mõ lốc cốc trong bầu không khí tĩnh lặng .
Vị sư bà chào đón chúng tôi trước cổng
chùa:
- Nam mô A-di-đa-phật!
Ngôi chùa nhỏ bé nép dưới bóng cây bồ đề. Thời
gian đã phủ rêu phong lên mái ngói, và nắng mưa đã làm tróc lở vôi trên tường,
nhưng ngôi chùa vẫn ấm cúng, và toát lên
vẻ linh thiêng. Trước sân, bức tượng Quan âm Bồ Tát đứng trên tòa sen , mắt từ bi
nhìn xuống màu xanh ngút ngát rừng tràm.
Cạnh pho tượng , một cây ngọc lan sum
xuê trổ bông trắng muốt, tỏa hương thơm dịu .
Sư bà
Đàm Thanh hỏi nhẹ nhàng:
- Duyên lành nào đưa quý vị tới ngôi chùa nhỏ bé này?
Bà khoảng
hơn sáu mươi tuổi, khuôn mặt hao gầy. Có
lẽ hồi còn trẻ, bà là người có nhan sắc , và đã trải qua nhiều truân chuyên trước khi tu hành. Nhìn đôi mắt đượm
buồn và gương mặt chưa trút hết ưu tư của bà, tôi thầm đoán vậy. Bà không nói tiếng
Quảng Trị, nghe bà phát âm giống giọng nói Thái Bình , quê tôi.
Chúng tôi bày hoa trái và dâng hương lên bàn thời Phật. Tôi ngạc nhiên khi thấy cạnh ngôi tam bảo, có bức
tượng Quan âm thị kính vấn khăn mỏ quạ ,vận
yếm đào, trước mặt đặt nhiều bát nhang quanh đĩa hoa ngọc lan trắng muốt.
Tôi hòi, sư bà trả lời:
- Đây là bàn thờ các nữ thanh niên
xung phong đơn vị tôi , hy sinh thời chống
Mỹ.
-Vậy ra Sư xuất thân từ thanh niên xung phong ?
Dâng hoa trái xong, sư dẫn
chúng tôi xuống núi tặng quà cho mấy gia
đình trong làng. Quay về chùa lúc trời
đã xẩm tối, chúng tôi ngồi quanh chiếc
bàn tròn gỗ mộc, dưới chân tượng Phật bà Quan âm, ăn bữa cơm chay do mấy
vị ni cô nấu trong khi chúng tôi đi từ thiện. Trong bữa cơm chay có món khoai
lang tím rất dẻo thơm và ngọt lịm. Sư bà nói vùng này dân còn nghèo lắm, đôi khi
thiếu gạo, phải ăn khoai . Khoai lang trồng
trên đất cát, chịu nắng gió Lào khắc nghiệt , củ nhỏ nhưng thơm ngon.
Sau bữa cơm chay đạm bạc, sư mời chúng tôi uống trà sâm. Sư bảo:
-Đây là sâm núi , chúng tôi hái về làm trà. Trà này uống mát gan , dễ ngủ.
Tự tay sư rót những ly trà màu vàng tươi, trong suốt mời chúng tôi. Dù đã
là người tu hành, nhưng xem ra sư bà Đàm
Thanh vẫn mang dáng dấp người phụ nữ
nông thôn quê tôi, sốc vác lam làm, và
trên khuôn mặt hao gầy vẫn chưa dứt ưu
tư. Sư
Đàm Thanh cho chúng tôi biết, sư và
các ni cô ở chùa có nghề nấu dầu tràm, bán lấy tiền sinh sống và chăm lo hương khói
ngôi tam bảo. Ở đây nghèo, Phật tử ít có tiền công đức. Đôi khi những đoàn Phật tử các nơi tới chùa cúng dường gạo muối, sư mang
xuống núi làm từ thiện. Sư và ngôi chùa nhỏ bé này cũng nghèo như những
người dân dưới làng chân núi kia, và giữa đạo và đời luôn gắn bó nhau.
Tôi nhấm nháp ly trà sâm ngòn ngọt, có pha vị đăng đắng , tò mò hỏi sư
bà:
- Sư trụ trì ngôi tam bảo này lâu chưa ?
- Thưa hơn hai chục năm !
- Sư xuất gia được bao nhiêu năm rồi ạ!
- Thưa hơn ba chục năm!
- Hình như sư người nơi khác?
- Vâng, quê tôi ở Thái Bình!
Tôi khẽ
reo lên:
- Ôi, vậy cùng quê tôi!
Sư Đàm
Thanh khẽ nhích mép cười . Tôi tò mò hỏi cơ duyên nào đã đưa người đồng hương đến
ngôi chùa nhỏ bé, giữa núi rừng heo hút tỉnh Quảng Trị này? Khuôn mặt hao gầy ,
xanh trong của sư Đàm Thanh bỗng hằn
lên những nếp nhăn. Sư khẽ khàng ngồi xuống mép bàn, kể cho
chúng tôi nghe chuyện quá khứ của mình.
Nguyễn
Thị Kim Thanh là tên đời thường của sư .
Năm
1968, tròn 17 tuổi,vừa nhận bằng tốt nghiệp cấp ba ,Kim Thanh xung phong đi thanh niên xung phong. Chẳng riêng Kim Thanh mà hơn chục cô gái lớp 10 , trường cấp
ba Hưng Hà cùng như vậy. Bấy giờ Thái Bình là tỉnh có phong trào ba sẵn sàng tiêu biểu nhất miền Bắc. Con trai đi bộ đội, con gái đi thanh niên xung phong! Ngay sau những đợt tuyển quân là những đợt
tuyển thanh niên xung phong. Hàng ngàn
cô gái tuổi mười bảy, mười tám đã lên đường
ngay từ nhiệm kỳ I, năm 1966, có mặt trên các tuyến đường khu IV. Sau tết
Mậu Thân, bắt đầu huy động nhiệm
kỳ II, vào Trường Sơn. Không chỉ lấy
tinh thần xung phong mà là nghĩa vụ đóng
góp cho tiền tuyến. Gia đình nào không
có con trai đi bộ đội , con gái
phải đi thanh niên xung phong. “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một
người”, không chỉ là khẩu hiêu mà là mệnh lệnh.
Buổi chia tay hôm ấy thầy trò , bạn bè ríu rít trên bến sông Hồng. Cô chủ nhiệm cầm xấp giấy gọi vào các trường cao đẳng, đại học giơ
lên vẫy, nước mắt đầm đìa :
Tiếng cười nói ríu rít và tiếng khóc. Chiếc xe vận tải trùm kín lá ngụy trang đi trong đêm
, dưới ánh đèn dù, vào vùng đất lửa. Kim Thanh và các bạn say xe nôn thốc tháo
. Rồi kiệt sức thiếp đi. Tỉnh dậy bàng hoàng, ngơ ngác giữa một thung lũng hoang vắng, núi cao chót vót vây
quanh . Lần đầu tiên những cô gái đồng bằng
nhìn thấy núi, xa lạ và huyền bí như trong chiêm bao. Đêm ấy các
cô vừa sợ vừa hồi hộp không dám ngủ, ôm chặt
lấy nhau , run cầm cập nhìn từng đàn đom đóm lập lòe và nghe tiếng hoẵng,
tiếng vượn kêu từ rừng sâu vọng tới.
Sư Đàm Thanh kể:
-Chúng tôi được biến chế vào C869 , Tổng đội Thanh niên xung phong tiền phương, làm
nhiệm vụ mở đường, tải thương, vận chuyển lương thực và vũ khí từ Quảng
Trị vào phía trong. Không có máy móc,
chiếc xe cút kít, và cái găng tay cũng không có . Từ đào bới , gánh gồng đất đá mở đường, san lấp
hố bom , đến tải thương tải đạn , đều bằng đôi vai, đôi bàn tay mảnh mai những
người con gái vừa rời ghế nhà trường. Ngày
đầu lòng bàn tay phồng lên, mọng nước
như phải bỏng. Hôm sau bọng nước vỡ ra , da non đỏ hỏn, chạm vào rát buốt tận tim.
Nhưng chúng tôi vẫn phải cầm xẻng, cầm cuốc, cắn răng chịu đau
xúc đất. Dần dần da tay dày lên, chai lại, véo không biết đau nữa. Những ngón tay như ngắn lại. Mỗi khi xòe bàn tay ra , nhìn những ngón tay, ngẩn
ngơ như không phải tay mình, tiếc
bàn tay búp măng cầm bút mềm mại hôm
nào,và bật khóc.
Sư Đàm Thanh chấm những giọt nước lăn xuống má, giọng nói rưng rưng:
- Ăn đói, mặc rét đã khổ, có những điều khổ hơn nhiều. Chúng tôi phải lấy quả găng giặt quần áo thay
xà phòng, đánh răng bằng nước muối, phải mượn nhau mảnh vài mùng ngày kinh kinh nguyệt...
Kim Thanh cùng bạn bè mong hai năm
qua mau, để trở về với gia đình, và nhận
giấy vào các trường cao đẳng , đại học như
cô chủ nhiệm hứa hôm chia tay. Nhưng chiến tranh mỗi ngày một ác liệt, và
không ai còn nhớ tới lời hứa ấy. Khái niệm về thời gian cũng nhạt nhòa.
Kim Thanh nói:
- Hầu như chúng tôi chỉ biết
có ngày và đêm. Nhìn thấy trời sáng là ngày, nhìn thấy trời tối là đêm. Không
nhớ ngày tháng . Công việc lôi cuốn từng giờ từng phút , đầu óc quay cuồng vì đường. Máy bay Mỹ trút bom xé nát từng cung đoạn. Bom từ trường chui xuống lòng đất phục sẵn chờ xe qua là nồ.
Những trận mưa lũ cuốn phăng từng đoạn
đường, từng chiếc cầu. Khẩu hiệu : “ Tim
ngừng đập, máu ngừng chảy, đường không thể tắc!” là mệnh lệnh chiến đấu. Số phận chúng tôi cột chặt vào “ Con Đường
Quyết thắng”
Giữa đêm khuya phải khiêng đá, gánh đất lấp hố bom. Trong mưa bão phải phá bom
nổ chậm. Phải ngâm mình dưới nước làm cọc tiêu sống
cho xe qua ngầm. Gió mưa lạnh buốt,kiệt
sức gục xuống lại vịn vào nhau đứng dậy.
Nhiều khi vác hàng qua bãi lầy, té sấp ngửa, bị thương máu trộn với bùn. Có những đêm cáng thương binh từ Tuyên Hóa ra bệnh viện 46, trên con đường
mòn cheo leo, một bên vách đá, một bên vực
sâu, trời tối đen như mực,chúng tôi nhờ những ánh chớp lóe lên để biết hướng đi...
Không thể kể hết nỗi gian khổ của nữ thanh niên xung phong ngày ấy. Bao nhiêu cô
gái đã ngã xuống , dù chỉ trên một “Con
Đường Quyết Thắng”?
Sư bà Đàm Thanh không nhớ hết. Bà chỉ nhớ được những người trong
trung đội mình:
-Đây là Nguyễn Thị Lan , cùng lớp
10A với tôi, và có giấy vào Đại học sư
phạm. Lan hy sinh ngày 21-3-1969, bị mảnh
bom vào ngực. Khi đã tắt thở tay Lan
vẫn còn cầm con cào cào tết bằng lá
buông.
Đây là Lê Thị Lành, lớp 10C,cũng có giấy gọi
vào Đại học . Lành phá bom từ trường giỏi
nhất đại đội. Nhưng hôm ấy đang tháo kíp một quả bom thì quả bom bên cạnh nổ. Chúng tôi tìm mãi không được mảnh
xương thịt nào cùa Lành.
Đây là Vũ Thị Nga, mới mười chín
tuổi. Hôm ấy các anh bộ đội cho mấy hộp sữa, chị em rủ nhau nấu kẹo sữa. Đang nấu thì
báo động tắc đường. Nga bốc vội một chiếc bỏ vào miệng , nóng bỏng
lưỡi, vội nhè ra la lên: “Em bắt đền các
chị đấy!” Tôi bào , chị sẽ đền em mười chín cái kẹo , được chưa nào? Nga ngúng
nguẩy vác xẻng ra mặt đường . Mấy phút
sau một loạt B52 dội xuống , Nga và ba đứa hy sinh, không kịp ăn cái kẹo nào...
Giọng sư Đàm Thanh thầm thì , như tâm sự với người khuất. Chỉ những
người từng trải qua những tháng năm chiến tranh gian khổ hy sinh mới hiểu hết
những lời bà nói...
Sư Đàm Thanh nói với tô:
-Ngày ấy chúng tôi rất thích
hát bài “Cô gái mở đường” và bảo nhau : “ Cố lên chúng mày ơi! Ngày chiến thắng
về quê hương năm tấn tha hồ hạnh phúc!” Nhưng ...
Tôi được biết Thái Bình có
30.000 nữ thanh niên xung phong trong thời kỳ chống Mỹ . Hàng ngàn cô gái trẻ
trong đội ngũ ấy, như Lan, như Lành
,như Nga đã vĩnh viễn nắm lại đâu đó
trên các miềm đất xa xôi. Những người may mắn hơn họ, được trở về quê hương, không
hạnh phúc như họ từng mơ ước mà phải chịu
nhiều cay cực, éo le. Như trường hợp Kim Thanh là một trong hàng ngàn số phận
đó.
Kim Thanh kể:
- Năm 1974 tôi được phục viên và vào trường cao
đẳng sư phạm, học hai năm rồi đi dạy học. Tôi lập gia đình với anh Lâm, quê Quỳnh Côi, là một thương binh. Hạnh phúc mỉm cười với vợ chồng tôi cho đến khi đứa con đầu lòng ra đời. Cháu không bình
thường và chết ngay sau khi sinh. Đứa thứ hai cũng vậy. Tôi lên Thái Bình khám, bác sỹ bảo bị nhiễm chất độc da cam. Nhớ lại ngày ở Trường
Sơn, những lần máy bay Mỹ bay trên trời
phun ra một đám bụi như sữa , chúng tôi cứ ngửa cổ lên nhìn. Ai ngờ đó là chất độc Dioxin di hại đến bây giờ...
Kim
Thanh thuyết phục chống lấy vợ khác. Chị tìm được một
người phụ nữ hiền lành ở làng bên, mai mối,
và tổ chức đám cưới cho chồng, rồi dọn vào ở riêng trong trường. Là một giáo viên trung thực, chị đã thằng thắn
đấu tranh với việc mua bán điểm trong thi cử ở trường,
bị trù dập, cô lập. Họ vin vào lý do lấy vợ hai cho chồng cùa chị , khai
trừ chị khỏi đảng và đưa xuống phòng giáo vụ
không cho đứng lớp.
Chị lặng lẽ vào Nam , tới tu viện
Đại Tòng Lâm (Đồng Nai), xuống tóc đi tu. Năm 1989, chị tìm về ngôi chùa nhỏ bé này, đề
được ở gấn những người bạn thanh niên xung phong ngày xưa của mình.
Tôi
thành kính thắp nén tâm nhang trên bàn
thờ những ngươi nữ thanh niên xung phong thời khói lửa chiến tranh, cầu mong
linh hồn các chị siêu thoát.
Đêm ấy
khuya lắm chúng tôi vẫn nghe tiếng mõ lốc cốc cùa sư bà Đàm Thanh. Không biết trong cuộc sống xô bồ hiện này còn mấy ai nghe
được tiếng mõ cô đơn ấy !
M.D
------------------
Một câu chuyện rất cảm động và cũng là một lời lên án mạnh mẽ tội ác chiến tranh. Đồng thời cũng lên án những kẻ có chức quyền đã trù dập những con người chân chính, đã hi sinh tuổi trẻ của mình để bảo vệ Tổ quốc.
Trả lờiXóaThái Bình ngày xưa rất anh hùng và đóng góp, hi sinh rất nhiều cho tiền tuyến. Nhưng cũng có không ít kẻ tha hóa, đồi bại... điển hình là cựu chủ tịch tỉnh Hà Giang Nguyễn Trường Tô - một gã dê già háo sắc...
Bên Thắng Cuộc đã làm chủ đất nước VN hơn 38 năm qua mà sao cũng không được vui mấy!
Trả lờiXóaTrong nhiều năm, chúng tôi, một số sĩ quan trẻ QLVNCH vẫn nghĩ cuộc chiến VN là xích mích giữa anh em trong nhà. Chiến tranh đã chấm dứt, chúng ta hãy xoá bỏ hận thù và xây dựng một nước VN giàu mạnh.
Nhưng chúng tôi đã lầm, lần lữa chúng tôi cũng nghiệm ra rằng, những người CS không vì dân tộc VN mà là vì thế giới đại đồng. Những người CS nầy hết phục vụ cho mục đích của Liên Xô, và bây giờ là mục đích của TQ, Họ chưa bao giờ và sẽ chả bao giờ phục vụ mục đích dân giàu nước mạnh của nước VN và cho người VN.
TNXP và bộ đội cụ Hồ, quý vị là những anh hùng của dân tộc VN, đã hy sinh tất cả những tiếc thay chỉ để phục vụ cho một thế chế man rợ lỗi thời. Xin cảm ơn bài viết của MD và chúc quý vị được nhiều may mắn.
Tại sao một cựu TNXP, những người rất tin vào lý tưởng, nay lại phải tin vào Phật?
Trả lờiXóaTiếng mõ khuya
Trả lờiXóaKhông lớn
Nhưng trong thanh vắng
Cũng đủ
Xua tan
Cơn mộng phàm
Cốc,cốc, cốc!
Trả lờiXóaTiếng mõ khuya.
Cốc, cốc , cốc!
Tiếng mõ khuya!
Có vọng tới Ba Đình?
Ôi đất nước,
Một thời lửa đạn!
Ôi đất nước,
Một thời hòa bình!
Máu và nước mắt
Vẫn rơi!
Cốc, cốc, cốc!
Đất Nước Tôi!
Nôi đau trong tiếng mõ khuya
Trả lờiXóaTôi nghe lòng tê tái!
Ôi những người chị gái
Ngàn năm không già
Chị Lan, chị Lành, chị Nga...
Như những bông hoa Ngọc Lan trắng thơm mãi mãi
Cốc.Cốc.Cốc....
Tiếng mõ khuya vọng xa,
Nhói vào lòng người
Xin tha thứ cho ai còn vô cảm!
Nam mô A-di-đà!
Một câu chuyện hay và sâu sắc đầy nhân bản. Chúng ta cần những bài viết như thế này, hơn những chửi bới vô văn hóa đang tràn lan trên mạng.Xin cảm ơn MD và BVB
Trả lờiXóaTiếng MÕ luôn nhẹ nhàng,sâu lắng,mạnh mẽ...luôn thức tỉnh lương tâm mọi người và cũng làm cho kẻ thù chùn chân run sợ.
Trả lờiXóaMình từng nghe,từng thấy tiếng MÕ ở quê hương mình đã làm lui binh cả đoàn quân Pháp càn quét ở vùng biển Đức Phỏ,Mộ Đức.Làm chùn chân và sợ hải của quân Mỹ và quân Ngụy.
Tiếng MÕ trên các blog cũng làm cho bọn tham nhũng rút vào đi ăn đêm.
Tiêng MÕ của Công Sơn đã làm cho lũ chuộc cống trong hang phải chui ra,hiện nguyên hình là bọn cướp.
Nặc danh06:05 Ngày 30 tháng 6 năm 2013
Trả lờiXóaTại sao một cựu TNXP, những người rất tin vào lý tưởng, nay lại phải tin vào Phật?
Vì họ đã hết tin vào Đảng và chính quyền !!!!
Xin cảm ơn anh MD, tôi rất trận trọng những bài như vậy vì tôi cảm thấy học được rất nhiều các sự thật mà một "công chức ngụy" như tôi thường không biết được.
Trả lờiXóaTôi có mấy người anh cùng cha khác mẹ là cán bộ, đảng viên và liệt sỹ nữa, nhưng tôi không có dịp để học hỏi những "kinh nghiệm' như trong bài này, có thể vì tôi ít nói chuyện tâm sự với họ, hay họ cũng không có đủ can đảm để kể lại cho tôi những chuyện như vậy. Cảm ơn anh MD.
Tôi không phải Phật tử, nhưng vì ly do nghề nghiệp nên có đọc nhiều sách tôn giáo. Tôi thấy người ta mô tả tiếng gõ mõ khi tụng Kinh là "tiếng mõ cốc cốc", nếu "lốc cốc" nó mang nghĩa thường hơn. Vài dòng góp ý. Trân trọng.
Trả lờiXóaBài viết rất hay, và các comments cũng rất hay!
Trả lờiXóaAnh Minh Diện ơi, rất tiếc, tiếng mõ đơn côi ấy, rất ít người nghe thấy....
Cốc, cốc ,cốc...
Trả lờiXóaTừng giọt nước mắt rơi!
Như tiếng chày khuya
Gõ vào cối giã gạo vơi
Sóc Bom Bo ngày xưa
Cốc, cốc, cốc...
Tiếng mõ trâu
Chiều nương rẫy
Tiếng gõ mạn thuyền
Trên khúc sông quê
Con phiêu dạt nơi nào?
Chị phiêu dạt nơi nào?
Anh phiêu dạt nơi nào?
Hồn ơi! Phiêu dạt nơi nào
Nghe tiếng mõ khuya tìm về đất mẹ!
Hồn ơi ra khỏi chốn mê
Mười sáu chữ vàng!
Cốc...Cốc...Cốc....
cốc...cốc...cốc....
Tiếng mõ khuya!
Nước mắt mẹ rơi
Ướt đẫm đồng quê chiều cướp đất
Tiếng dùi cui