Ông Lê Hồng Hà (Mất ngày 15.11.2016). Ảnh: Nguyễn Thanh Giang/ internet |
* Nguyễn
Thanh Giang
Trong hàng ngũ trí thức Việt Nam đương đại,
giáo sư Lê Thi được xem là một trong những gương mặt trí thức tiên phong. Giáo
sư Lê Thi tên thật là Dương Thị Thoa, con gái giáo sư liệt sĩ Dương Quảng Hàm –
người được tôn vinh là nhà sư phạm mẫu mực, nhà văn học sử tiên phong của Việt
Nam. Bác ruột Dương Bá Trạc của bà đỗ cử nhân năm 17 tuổi, là một trong những
sáng lập viên của Đông Kinh Nghĩa Thục. Bà là bác ruột của nhà văn, nhà báo,
chiến sĩ Dương thị Xuân Quý (vợ của nhà thơ Bùi Minh Quốc).
Lê Thi dễ dàng được khẳng định là một trí thức không
chỉ ở hành động lịch sử kéo Lá cờ Đỏ Sao Vàng đầu tiên trên Lễ đài Độc lập Hà
Nội mà còn bởi hàm giáo sư, bởi chức vị Viện trưởng Viện Triết đầu tiên của
Việt Nam … (ông Hoàng Minh Chính là trưởng Ban Triết của Đảng, lúc đó chưa
chính thức thành lập Viện Triết).
Bài tiểu luận này muốn xác định danh tính một trí thức
nữa trong gia đình giáo sư Lê Thi. Đấy là “ý trung nhân” của bà – ông công an
gạo cội Lê Hồng Hà.
“GIỮA
ĐÀNG THẤY SỰ BẤT BẰNG MÀ THA”
Nhiều người quá xem trọng trình độ học vấn, thậm chí
lấy tiêu chuẩn bằng cấp, học vị để định danh trí thức. Tôi hiểu như học giả
Pháp J.P. Sartre: Trí thức là những người thường “xớ rớ” vào những chuyện không
liên quan đến mình. Những chuyện không phải của chính mình mà họ thấy là của
mình. Vì luôn coi việc trong trời đất là việc của chính mình nên người trí thức
luôn tìm đến sự thật. Qua phản ánh sự thật, người trí thức luôn nhìn thấy
khuyết điểm của hiện hữu. Không chấp nhận những gì là ngụy lý, người trí thức
thường đưa ra những phản biện mang nội dung phê phán và dự báo. Họ làm việc đó
một cách bình thản và can đảm dù cho vì thế mà họ gặp phải nhiều hệ luỵ.
Lê Hồng Hà đã từng “xớ
rớ vào những chuyện không liên quan đến mình” để rồi “gặp phải nhiều hệ luỵ”
Sự thật thì đúng như ông đã viết trong thư gửi Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đề ngày 18 tháng 7 năm 1995: “Tôi chỉ có một
tội: Có lương tâm và dũng khí đưa ra kiến nghị giải oan cho những người vô tội,
và một dại dột: Quá tin vào lương tri và ý thức trách nhiệm của một số người
lãnh đạo của Đảng, quá tin vào các điều khoản trong điều lệ Đảng”.
Năm 1965 – 1957 với tư cách uỷ viên Đảng đoàn Bộ Công
an, ông đã tham gia sửa sai về công tác đánh địch trong cải cách ruộng đất. Đây
là đợt sửa chữa những sai lầm lớn về đánh địch, về xử lý oan trong nội bộ Đảng
lớn nhất và rộng nhất trong lịch sử ĐCSVN. Đến năm 1963 – 1964 ông lại là người
đóng góp rất tích cực trong việc phát hiện và giải oan cho 8 cán bộ lãnh đạo
chủ chốt về Đảng và về Công đoàn ở Nhà máy Cơ khí Gia Lâm. Lúc đó, tại nhà máy
xảy ra sự kiện: Trung tá Võ An Khang từ quân đội chuyển ngành sang làm giám đốc
Nhà máy bỗng nhiên bị chết. Công an Hà Nội cho đây là vụ giết người, đã bắt
giam và tra hỏi 8 cán bộ chủ chốt của nhà máy. Họ bức cung hết sức khốc liệt
nên chỉ sau một thời gian, tất cả đều nhận tội giết người. Giám đốc công an Hà
Nội đã báo cáo với 5 uỷ viên Trung ương Đảng và được đồng tình chuẩn bị đưa ra
xử tội. Việc giải oan vô cùng khó khăn vì việc quy tội sai lại liên quan đến
một cán bộ cấp cao. Đằng đẵng suốt 4 năm trời xả thân vì công lý vụ án oan mới
được giải. Khi được trả tự do, một số đã bị tâm thần, sức khoẻ suy kiệt, gia
đình tan nát.
Cứ mang cái nghiệp như thế vào thân, năm 1995 ông lại
“xớ rớ” vào một việc động trời: đòi minh oan cho Vụ án Xét lại Chống Đảng.
Trong thư gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ngày 18 tháng 7 năm 1995 ông đã
vạch rõ: “Báo cáo của ông Nguyễn Đình Hương (chuyên viên cao cấp của Ban Bảo vệ
Nội bộ) về vụ án “Chống Đảng” là xuyên tạc sự thật và lừa dối Đảng.
Bộ Chính trị chỉ dựa vào báo cáo vốn đã sai lầm của
ông Nguyễn Đình Hương thì tất yếu sẽ rút ra những kết luận sai lầm thể hiện
trong thông báo số 111 ngày 14 tháng 4 năm 1995 do ông Lê Đức Anh ký. Trung
ương cần kiểm tra lại hoạt động của Bộ Chính trị và cần giải oan cho hàng trăm
người vô tội đã bị oan khuất, khốn đốn suốt 30 năm nay”. Trong thư gửi BCHTWĐ
ngày 18 tháng 7 năm 1995 ông căn vặn vạch vòi: “Sự hình thành tổ chức này
(XLCĐ) ra sao? Có từ bao giờ? Do ai sáng lập? Ai là lãnh tụ? Có tên gọi không?
Có điều lệ không? Có cương lĩnh không? Cương lĩnh ấy được cấp nào thông qua? Có
cấp trên, cấp dưới không? Ai là uỷ viên chấp hành? Ban chấp hành do chỉ định
(ai chỉ định?) hay do bầu (ai bầu?) hay do tự phong? Được ai thừa nhận? Có thủ
tục kết nạp và khai trừ không? Tổ chức theo chi bộ, tổ đảng hay đơn tuyến? …”,
“Việc quy tội làm tình báo cho người nước ngoài có phần hồ đồ và không có căn
cứ chính trị pháp lý. Nói hồ đồ là không thể quy hàng trăm người dính vào vụ án
đều có tội tình báo được. Công tác tình báo chỉ có thể là việc của một người cá
biệt nào đó mà thôi. Vậy nếu chỉ có một vài người thì là những người nào? Họ
lấy tình báo gì? Họ chuyển cho ai? Ở đâu? ngày giờ nào? Sở dĩ nói không có căn
cứ chính trị pháp lý vì tội tình báo bao giờ cũng gắn liền với việc phục vụ cho
một nước ngoài đối địch với ta, họ có những âm mưư phá hoại chính trị nước ta.
Ở đây nói nước ngoài là Liên Xô, nhưng suốt thời gian
đó, Liên Xô chưa hề là nước đối địch, chưa hề có những hoạt động phá hoại chế
độ chính trị nước ta. Chẳng những thế Liên Xô còn là nước đồng minh chiến lược
hàng đầu được nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước xác định trong cuộc chiến
tranh chống đế quốc trước đây”, “Ông Nguyễn Đình Hương có cho triển lãm sơ đồ
tổ chức do Hoàng Minh Chính tự vẽ ra để nói là có tổ chức (? ). Vậy xin hỏi:
Hoàng Minh Chính giữ vai trò gì trong tổ chức này (là Tổng bí thư, là trưởng
ban tổ chức hay là cái gì) mà vẽ ra tổ chức? Có bao nhiêu người thừa nhận sơ đồ
đó? Sao lại lấy lời khai của một người để quy tội cho hàng chục, hàng trăm
người là hoạt động phá hoại có tổ chức ư?”.
Lê Hồng Hà đã rất thận trọng trước khi dám hạ quyết
tâm “xớ rớ” vào vụ này. Ông tìm gặp lại Nguyễn Trung Thành, nguyên là Vụ trưởng
Vụ Bảo vệ Nội Bộ, người giúp việc chính cho ông Lê Đức Thọ trong việc theo dõi
trong vụ án Xét lại Chống Đảng từ đầu đến cuối. Ông đã “cật vấn” ông Nguyễn
Trung Thành hàng loạt câu hỏi: “Vì sao 29 năm trước đây anh vẫn cho số người
này là có tội mà hơn một năm nay (kể từ cuối năm 1993 trở lại đây) anh lại cho
họ là vô tội?”, “Vì sao anh có vị trí gần nhất với ông Lê Đức Thọ, người chủ
chốt chỉ đạo vụ án, tức là gần mặt trời hàng ngày được chứng kiến cái đúng đắn
trong chỉ đạo, mà anh lại nói là sai?”, “Vì sao các khoá TW trước đây (kể cả
của Ban Bí thư cuối năm 1991) vẫn cho là đúng, nay cá nhân anh lại cho là sai?
Như vậy có phải là anh chống lại TW không?”, “Từ khi anh thấy vụ án này sai,
anh đã báo cáo với Bộ Chính trị và Ban Bí thư chưa? Đã được trả lời thế nào?”
….
Trong thư gửi BCHTW ngày 18 tháng 7 năm 1995 ông khẳng
định: “Sau khi nghe đồng chí Nguyễn Trung Thành trình bày, giải thích cặn kẽ
cho tôi nghe về vụ án, và qua đó, với trình độ kinh nghiệm bản thân, tôi thấy
rõ rằng: tất cả những người bị bắt và xử trí trong vụ án này đều không phạm
tội, dù là một tội nhỏ. Và tôi tin tưởng rằng chỉ cần với một lương tri tối
thiểu, nếu các cơ quan có trách nhiệm chịu nghe báo cáo của đồng chí Nguyễn
Trung Thành thì chắc chắn vấn đề sẽ được giải quyết dễ dàng, không có gì khó
khăn phức tạp”.
Hơn thế nữa, trước khi dám “xớ rớ” vào chuyện động
trời này, Lê Hồng Hà không chỉ “cật vấn” Nguyễn Trung Thành mà ông đã cày cục
lần mò tìm đến trao đổi với nhiều vị “đại lão thành cách mạng” như Nguyễn Văn
Trấn, Võ Thúc Đồng, Nguyễn Hữu Khiếu, Nguyễn Đức Tâm, Nguyễn Quang Việt … Cùng
khoảng đó ông Nguyễn Trung Thành thì gặp Hoàng Tùng, Nguyễn Côn, Đoàn Duy
Thành, Lê Khắc, Nguyễn Tài … Hầu hết đều đồng tình và hứa sẽ đóng góp vào việc
giải oan này
Nhưng rồi … ông đã thất bại! Tấm huân chương mà Đảng
của ông tặng thưởng hành động nghĩa cử, xả thân vì uy tín của Đảng, vì đồng
chí, đồng đội của ông là bản quyết định khai trừ khỏi Đảng. (Người viết không
đóng ngoặc kép chữ huân chương vì xét theo lập trường nào đó, nó đúng nghĩa
đen).
Tài giỏi gấp triệu lần Lê Hồng Hà mà xớ rớ vào chuyện
này thì cũng lãnh đủ như vậy thôi. Bởi vì, giải oan được cho hàng trăm người,
trong đó có nhiều cán bộ cỡ lớn của Đảng (4 uỷ viên Trung ương, 1 thiếu tướng,
3 đại tá, 4 vụ trưởng … ) thì có nghĩa phải kết án Lê Đức Thọ không chỉ ở mức
tử hình mà phải tru di tam tộc. Trong khi đó, dù Lê Đức Thọ có chết đi rồi thì
vẫn còn đó những kẻ đời đời mang ơn Lê Đức Thọ. Không có Lê Đức Thọ thì làm sao
cái ông hoạn lợn ít học kia lại có thể được tâng lên đứng trên đầu toàn Đảng
như vậy!
Thực tế đã và đang không chỉ có ông Đỗ Mười!
Người ta cứ tưởng rằng TW khoá Ba và Bộ Chính trị lúc
đó tập thể lãnh đạo phá vụ án này. Thực ra, mãi đến tháng 3 năm 1971 Bộ Chính
trị mới họp để nghe về vụ án, và cũng mãi tới tháng 1 năm 1972 BCHTW mới họp
nghe báo cáo về vụ án. Người ta lại cũng cứ tưởng rằng có một ban chỉ đạo gồm 8
uỷ viên TW đã được lập ra để chỉ đạo vụ án; song thực ra phải đến tháng 11 năm
1968, một ban như thế mới được lập ra với nhiệm vụ giải quyết các việc còn sót
lại của vụ án. Suốt cả quá trình từ 1963 đến cuối 1968, toàn bộ quá trình xác lập
vụ án, bắt bớ, tra khảo, quy tội … đều do Lê Đức Thọ chỉ đạo. Tuy luôn nhân
danh Bộ Chính trị nhưng không hề có một nghị quyết nào của Bộ Chính trị cả, Lê
Đức Thọ chỉ sử dụng một số cán bộ của ngành công an, bảo vệ quân đội và tổ chức
TW. Toàn bộ cán bộ của ngành kiểm sát và toà án không hề can dự, không hề được
biết, được hỏi gì cả!
HOẠ VÔ ĐƠN CHÍ
Đảng không chỉ tặng thưởng Lê Hồng Hà tấm “Huân chương
Khai trừ” (Các ông Trần Độ, Phạm Quế Dương, Vũ Cao Quận, Vi Đức Hồi, Phạm Đình
Trọng, Vũ Minh Trí … cũng đều nhận được tấm huân chương cao quý này) mà còn
tống tù ông. Ngày 6 tháng 12 năm 1995, công an Hà Nội đã bắt giam và ngày 22
tháng 8 năm 1996, Toà án Nhân dân Hà Nội kết án 2 năm tù giam về tội “cố ý làm
lộ bí mật nhà nước”, cụ thể là “đã đọc và chuyển cho người khác đọc bức thư của
ông Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính trị, đề ngày 9 tháng 8 năm 1995”.
Người ta cứ nhất quyết bỏ tù ông, mặc dù những lời
biện hộ của ông rất thấu tình đạt lý và đầy lý lẽ thuyết phục:
Xét về nội dung, ý tứ và lời lẽ của hai bức thư thì
đây là thư ông Võ Văn Kiệt với tư cách là một đảng viên gửi Bộ Chính trị, nghĩa
là một tài liệu của bên Đảng, không phải là tài liệu với tư cách Thủ tướng.
Trong thư không hề xưng danh Thủ tướng. Không có dấu và công văn của Văn phòng
Chính phủ.
– Quyết định 338/ TTg ngày 29 tháng 6 năm 1994 của Thủ
tướng Chính phủ về danh mục tài liệu bí mật chỉ là văn bản hành chính nội bộ
của Văn phòng Chính phủ, thuộc loại văn bản không được phổ biến lên đài, lên
báo. Các cơ quan lập pháp không được dựa vào một văn bản hành chính nội bộ để
kết tội công dân.
Nội
dung điều 1, mục II, khoản 5 của quyết định 338/TTg trái với Điều I và Điều 7
của Pháp lệnh Bảo vệ Bí mật Nhà nước, tức là trái với luật, như vậy mặc nhiên
không thể trở thành căn cứ để truy tố và xử tội công dân.
Theo Bộ luật, khi xét xử tội danh “Tiết lộ bí mật Nhà
nước”, thì thông thường chủ thể của tội phạm chỉ có thể là những cán bộ đương
chức, có nhiệm vụ quản lý những bí mật nhà nước, chứ không thể tuỳ tiện xử tội
những cán bộ về hưu…”
Tôi
hoan nghênh việc công khai hoá bức thư Võ Văn Kiệt của ông Lê Hồng Hà. Đây là
một trong những đóng góp quan trọng thúc đẩy tiến trình dân chủ hoá đất nước.
Bức thư đã góp phần khai hoá những cái đầu nào còn u tối trong Bộ Chính trị
ĐCSVN, đã banh mắt họ ra.
(Xin được chen vào đây một đoạn kể phúc lộc trời cho
đối với tôi qua bức thư trên đem tới: Tôi là người đầu tiên viết bài công khai
tán dương thư Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính trị và tán phát rộng rãi. Bài báo có
tiêu đề “Thế nào là định hướng đúng” (còn lưu ở thư viện mạng “www. nguyenthanhgiang.com”
và trong cuốn sách “Suy tư và Ước vọng”)
Cuối năm 1995 trường đại học Hoa Kỳ UCLA mời tôi sang
thuyết giảng về Cổ Từ học vào học kỳ Mùa Xuân 1996, thời gian 2 tuần. Công an
dứt khoát ngăn trở. Học kỳ Mùa Xuân cứ thế trôi qua. Nhưng sau khi bài “Thế nào
là định hướng đúng” loan truyền, bỗng dưng có người nói với tôi: “Nếu lại có
giấy mời sang Mỹ công tác vào học kỳ Mùa Thu thì rất có thể sẽ đi được đấy”.
Quả nhiên thủ tục xuất cảnh được làm rất nhanh. Trước ngày lên đường tôi còn
được dự một bữa tiệc linh đình do công an khoản đãi, chủ xị là một vị đại tá.
Ngày ấy bộ trưởng công an là Bùi Thiện Ngộ, thân tín của ông Võ văn Kiệt. Hình
như sau đó ít lâu ông này bị thất sủng).
Sau thư Võ Văn Kiệt là thư Nguyễn Nam Khánh. Bây giờ
thì tôi xin mạnh dạn “thú tội”: Chính Lê Hồng Hà đã giấu bức thư Nguyễn Nam
Khánh trong nhà để sau đó bức thư này được tôi đưa lên mạng.
Bữa đó, không biết nhận được tin báo từ đâu, hàng chục
công an đã ập vào nhà Lê Hồng Hà lục soát tanh bành suốt từ 7 giờ tối đến 1 giờ
sáng. Nhưng rồi họ đã thua ông công an gạo cội này. Ba ngày sau tôi đến thăm
ông. Không ngờ ông có bức thư ấy thật, và cực kỳ vui sướng là, nó vẫn còn trong
nhà ông. Trống ngực tôi đánh đổ hồi nhưng tôi vẫn run run bỏ bức thư vào túi áo
bành tô, cố giữ vẻ thản nhiên bước ra.
Dù đánh chữ bằng vi tính rất chậm nhưng không dám đưa
ai, tôi đành tự mình cậm cạch gõ bàn phím qua đêm để tức tốc đưa lên mạng.
“Lời thú tội” này nếu có đem lại hiểm hoạ nào cho ông
Lê Hồng Hà và cho tôi thì tôi vẫn cứ “thú tội” một cách thích thú. Bởi vì, nếu
việc công khai hoá thư Võ Văn Kiệt được xem là đóng góp quan trọng cho tiến
trình dân chủ hoá Việt Nam
thì việc bạch hoá thư Nguyễn Nam Khánh cũng có tác dụng to lớn không kém.
Bạch hoá nó ra thì toàn Đảng mới thấy cái ung nhọt
chết người đang nằm trong cơ thể Đảng. Mới thấy cái cơ chế phản dân chủ, tập
trung dân chủ độc quyền, độc đoán đang tạo nên một “đảng” khống chế Đảng, ức
hiếp Đảng, gông cùm Đảng ghê gớm đến mức nào!
Bạch hoá thư Võ Văn Kiệt và thư Nguyễn Nam Khánh như
đã gióng hồi chuông cảnh tỉnh, giác ngộ Đảng, góp phần thúc đẩy công cuộc đổi
mới đúng hướng hơn, đặc biệt về đường lối đối ngoại. ( Ít ra là ở thời kỳ ngay sau đó. Còn bây giờ …?! )
Đọc thư Nguyễn Nam Khánh người ta bàng hoàng nhìn ra
con quái vật “T4”. “T4” là bóng ma kinh hãi, là thanh gươm rùng rợn do “đảng”
tạo ra nhứ trên cổ ngay cả những bậc hết sức quyền thế trong Đảng, buộc Đảng
phải làm theo cái gậy chỉ huy của “đảng”. “T4” là sản phẩm của liên minh tình
báo Hoa Nam và tình báo
mafia Việt Nam .
Tôi kinh tởm, ghê sợ nó. Tôi ngày đêm khắc khoải lo
lắng về nguy cơ đô hộ mới tồi tệ hơn những ách đô hộ cũ. Tôi đã quyết liệt và
sẽ còn cố gồng mình lên mà góp phần tích cực ngăn chặn nó, dù đã tuổi già, bất
chấp gian nguy.
Tìm thư Nguyễn Nam Khánh vào giữa đêm, lục soát tanh
bành nhà một công thần của cách mạng đã là bỉ ổi. Giữa đêm 15 tháng 2 năm 2001
người ta lại điệu ông lên Sở công an Hà Nội. Mục đích duy nhất của cuộc khảo
cung lần này chỉ là để tìm tang chứng một bức thư khác.
Đây là một bức thư kêu gọi lật đổ chính quyền? Là một
tài liệu bí mật quốc gia?
Không,
đây chỉ là một bức thư gửi Bộ trưởng Công an Lê Minh Hương mà theo Lê Hồng Hà
thuật lại: “Đó chỉ vẻn vẹn có một trang đánh máy vi tính, cũng không có bản
thảo viết tay nào kèm theo cả. Vì phải đọc nhanh trong phòng hỏi cung nên tôi
chỉ nhớ được đại thể mấy ý của tài liệu đó như sau:
Đòi hỏi ông Bộ trưởng Bộ Công an cho biết vì sao có vụ
nổi loạn đầu tháng 2/2001 ở khu vực Tây Nguyên mà các cơ quan của Đảng, chính
quyền, công an đều bị bất ngờ?
Vì sao công an Hà Nội lại bắt giữ nhà trí thức Nguyễn
Thanh Giang đầu năm 1999, rồi khi phải trả lại tự do không hề có lời xin lỗi?
Vì sao công an Lâm Đồng lại khởi tố nhà trí thức Hà Sĩ
Phu, rồi khi phải đình chỉ điều tra cũng không một lời xin lỗi?
Vì sao Bộ Công an lại chỉ đạo báo An ninh Thế giới
tiếp tục viết loạt bài nêu tội trạng của một loạt nhà trí thức yêu nước chưa hề
bị một toà án nào kết tội? Vì sao một tờ báo quan trọng của Bộ như tờ An ninh
Thế giới lại có thể vi phạm luật pháp Nhà nước?
v
v …. ”
Nhận được một bức thư như vậy, nếu đúng là của Lê Hồng
Hà thì lẽ ra Lê Minh Hương nên lễ phép giãi bầy.
Bởi vì, hãy xem Lê Hồng Hà là ai?
Ông sinh năm 1926, tên thật là Lê Văn Quỳ, tham gia
cách mạng từ trước Cách mạng Tháng Tám. Tham gia đánh chiếm Trại Bảo An Binh
trong cuộc khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945. Tháng 7 năm 1946 được kết nạp vào
đảng Cộng sản Đông Dương do phó Tổng Giám đốc Nha Công an Việt Nam Lê Giản giới
thiệu. Trước khi được cử phụ trách Trường Công an Trung ương (1953 – 1957) rồi
sau đó được đề bạt Chánh Văn phòng Bộ Công an (1958) ông đã từng được Trung
ương cử đi học Khoá l lớp Lý luận Mác – Lê Nin ở Bắc Kinh (1949) và được giữ
lại làm trợ giáo cho các khoá II và III tại đây (học viên của ông gồm nhiều
người sau này trở thành Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị).
Qua đó xem ra Lê Hồng Hà là cỡ thầy của thầy Lê Minh
Hương. Vậy mà sao Lê Minh Hương dám vô lễ và nỡ tàn nhẫn như vậy!
NGƯỜI CÔNG AN CỘNG SẢN CHỐNG LẠI CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN
Ở Việt Nam
có những nghịch cảnh làm quằn quại suy tư, làm đau thắt lòng người. Triết gia
Mác Lê Nin tầm cỡ quốc tế Trần Đức Thảo, Viện trưởng Viện Triết Mác Lê Nin
Hoàng Minh Chính, nghiên cứu sinh Mác Lê Nin khoá I Lê Hồng Hà … đều bị đảng
Mác Lê Nin của Việt Nam bỏ tù hoặc đầy ải cho đến chết vì lần lượt trở cờ phê
phán Mác Lê Nin rất mạnh mẽ. Trong bài “Suy nghĩ về chủ nghĩa Mác” viết tháng 1
năm 1995, Lê Hồng Hà vạch ra 19 điều để chê chủ nghĩa Mác:
“ –
Lấy sự phân tích một khúc phát triển (thời kỳ sơ kỳ) của chủ nghĩa tư bản để
khái quát, coi như đặc trưng của chủ nghĩa tư bản và dựa vào dự đoán xu thế
diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản là sai về phương pháp luận.
–
Sự phát hiện cái gọi là sứ mệnh của giai cấp công nhân là sai lầm.
–
Lý luận coi đấu tranh giai cấp và sự tất yếu của chuyên chính vô sản là quy
luật phổ biến là sai.
–
Lý luận về đặc trưng phi hàng hoá của chủ nghĩa xã hội là sai
–
Lý luận về “Mục tiêu xoá bỏ chế độ tư hữu”, tách khỏi sự tăng trưởng kinh tế là
sai. v v và v v …”.
Độc đáo nhất là ông công an cộng sản gạo cội này lại
lên án chuyên chính vô sản hơi nặng lời: “Người ta cứ tưởng rằng thiết lập
chuyên chính vô sản cũng tức là xây dựng nên một chế độ triệu lần dân chủ hơn
chế độ tư bản. Nhưng qua các cuộc thanh trừng tàn bạo mà Đảng cộng sản Liên Xô
và báo chí Liên Xô đã bộc lộ thì đó chỉ là một chế độ toàn trị (totalitarisme),
một nền chuyên chế tàn bạo nhất trong toàn bộ lịch sử nước Nga. Nền chuyên
chính vô sản về cơ bản là đối nghịch với nền dân chủ thông thường, là triệt
tiêu dân chủ, là chống lại những quyền cơ bản của con người”.
Ngay từ bản thuyết trình về: “Chủ nghĩa xã hội dân chủ”
trong một buổi Hội thảo ngày 14 tháng 12 năm 1991, Lê Hồng Hà đã khẳng định
rằng chính chủ nghĩa Mác Lênin đã làm Liên Xô sụp đổ nhanh chóng: “Theo tôi, ở
Liên Xô và Đông Âu đã diễn ra một quá trình tan vỡ, còn tác động của Mỹ, của
CIA trước kia cũng như hiện nay chỉ ảnh hưởng trong phạm vi nào đó chứ không phải
là nhân tố quyết định. Con đường mà Liên Xô và các nước Đông Âu đi từ sau cách
mạng Tháng Mười là con đường tự huỷ. Sự tự huỷ này có nguồn gốc liên quan đến
những điểm sau:
Thứ nhất – Xét về mặt kinh tế, đã thực hiện một chính sách
kinh tế kế hoạch hoá tập trung, phủ nhận nền kinh tế thị trường.
Thứ hai – Xét về chế độ tư hữu, tuyệt đối hoá công hữu, xoá
bỏ tư hữu, xoá bỏ các thành phần kinh tế phi XHCN
Thứ ba – Nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản
đến mức độ đè nén, phủ nhận dân chủ trong xã hội
Thứ tư – Biến ĐCS với tư cách lãnh đạo thành một đảng siêu
nhà nước, tức là đứng lên trên nhà nước, quyết định mọi vấn đề. Còn bản thân
nhà nước chỉ còn là một công cụ
Thứ năm – Có sự đẳng cấp hoá và đặc quyền hoá trong nội bộ
đảng”.
Ông tha thiết kêu gọi hãy rũ bỏ chủ nghĩa Mác – Lê Nin
ngoại lai để tìm con đường phát triển riêng cho Việt Nam
bằng chính tư duy Việt Nam .
Trong bài “Thử tìm phong cách tư duy cho Việt Nam ”
ông khẳng định: “Phong cách Việt Nam có những nét đặc thù khác với
các dân tộc khác, khác với các học thuyết ngoại nhập. Dưới đây, thử nêu lên một
số đặc trưng chủ yếu nhất của tư duy Việt Nam :
1 – Khác với nhiều học thuyết tách biệt máy móc xã hội
với giới tự nhiên, tư duy Việt Nam thường xem xét xã hội, con người trong mối
quan hệ với giới tự nhiên, coi Thiên – Địa – Nhân trong một thể thống nhất.
2 – Khác với nhiều triết học Phương Tây đặt vấn đề
quan hệ “giữa tâm và vật” lên hàng đầu, tư duy Việt Nam lại đặt quan hệ giữa cá
nhân với cộng đồng lên hàng đầu trong hệ thống tư duy của mình. Và mối quan hệ
đó được đặt ở ba cấp; gia đình, làng xã và quốc gia. Trong mối quan hệ đó,
người Việt Nam
vừa coi trọng cộng đồng, vừa quan tâm đến lợi ích từng thành viên.
3 – Khác với học thuyết Phương Tây quá cường điệu sự
đấu tranh giữa các mặt đối lập, tuyệt đối hoá quy luật phủ định của phủ định
liên tục để nói sự tiến lên của xã hội, tư duy Việt Nam lại nhấn mạnh sự kết
hợp hài hoà các mặt âm dương để lý giải sự tồn tại và tiến lên của xã hội.
4 – Khác với nhiều học thuyết Phương Tây nhấn mạnh sự
hình thành chủ nghĩa cá nhân, coi lợi ích cá nhân, coi quy luật đấu tranh giai
cấp làm động lực phát triển của xã hội, tư duy Việt Nam lấy tư tưởng cộng đồng,
hợp tác tương trợ giữa người với người trong cộng đồng làm động lực thúc đẩy xã
hội tiến lên.
5 – Khác với nhiều học thuyết Phương Tây nhấn mạnh đấu
tranh không khoan nhượng về tín ngưỡng, về tư tưởng (thậm chí dẫn tới chiến
tranh tàn sát tôn giáo) tư duy Việt Nam lại nhấn mạnh sự khoan dung, nhường
nhịn, hoà hợp.
6 – Khác với nhiều học thuyết bên ngoài tự phong là
hoàn chỉnh, khép kín mít, từ chối mọi yếu tố bên ngoài, tư duy Việt Nam vốn là
rộng mở, chịu tiếp xúc với nền văn hoá bên ngoài, khiêm tốn học hỏi, sẵn sàng
tiếp nhận mọi yếu tố có lợi biến thành của mình nhưng luôn giữ bản sắc của mình,
chống sự đồng hoá của bên ngoài, chống sự ăn sống nuốt tươi
7 – Khác với nhiều học thuyết đã tách biệt đời sống
vật chất với đời sống tâm linh, tư duy Việt Nam coi trọng cả hai trong đời sống
hàng ngày”.
Ông
đã nêu lên những yêu sách có tính chất cương lĩnh như sau:
“ 1 – Từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, giữ
nguyên mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2 – Thay tên nước“ CHXHCN VN bằng nước “Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hoà.” hoặc nước “ Việt Nam Dân chủ Nhân Dân” hoặc nước “ Việt Nam”.
3 – Từ bỏ lý thuyết “Thời kỳ hoá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội” của Lê nin, để xây dựng một lý thuyết phát triển bền vững của Việt Nam
–
Từ kém phát triển lên phát triển
–
Từ chế độ bao cấp kế hoạch hoá tập trung lên nền kinh tế thị trường hiện
đại.
–
Từ chế độ công hữu hoá làm chủ sang chế độ tư hữu nhiều thành phần
–
Từ một xã hội ít nhiều khép kín sang một trạng thái hội nhập, đầy đủ với thế
giới.
–
Từ một nền văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp lên một nền văn minh trí
thức
4 – Từ bỏ học thuyết Lê nin về thời kỳ quá độ có nghĩa
là:
4.1 – Từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa vì là mục tiêu ảo tưởng.
4.2 – Từ bỏ lý luận “Đấu tranh giai cấp giữa hai con
đường là TBCN và XHCN làm động lực thúc đẩy đến xã hội phát triển ” chấp nhận
đường lối Đại đoàn kết toàn dân.
4.3 – Từ bỏ lý luận về cách mạng quan hệ sản xuất xoá
giai cấp tư sản, xoá bỏ nền kinh tế cá thể đi vào chế độ công hữu với hai hình
thức quốc doanh và kinh tế tập thể …
4.4 – Từ bỏ chủ trương “Lấy quốc doanh làm chủ đạo”,
thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, lấy kinh tế dân doanh làm nền tảng.
5 – Từ bỏ “Nhà nước chuyên chính vô sản do giai cấp vô
sản lãnh đạo”, từ bỏ cái gọi là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp
quyền XHCN, thừa nhận nhà nước dân chủ nhân dân, nhà nước của dân, do dân, vì
dân, thừa nhận xã hội công dân, nhà nước pháp quyền
6 – Từ bỏ chủ nghĩa vô thần của Mác, từ bỏ quan điểm
“các tôn giáo là thuốc phiện”. Đối với nhân dân cần tôn trọng tập quán, tín
ngưỡng của các tầng lớp nhân dân, coi các tôn giáo là các trào lưu văn hoá
kể cả các tôn giáo ngoại nhập)
7 – Từ bỏ lý luận chỉ có một đảng Cộng Sản, chấp nhận
“nền dân chủ đa nguyên, đa đảng ở Việt Nam ”. Loại bỏ điều 4 Hiến Pháp lãnh
đạo độc tôn đối với xã hội.
8 – Từ bỏ chủ trương lấy chủ nghĩa Mác Lê nin (mà cho
tới nay vẫn chỉ là hệ thống các quan điểm lý luận của Staline ) làm hệ tư tưởng
chỉ đạo mặt trận tư tưởng và lý luận, mà phải lấy tư tưởng văn hoá của Việt
Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh làm hệ tư tưởng chỉ đạo của quốc gia.
9 – Vừa chú trọng nâng cao mức sống của nhân dân, vừa
coi trọng nền văn minh tinh thần, tôn trọng đời sống tâm linh của dân tộc
10 – Vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (lấy đó làm cơ
sở), lại vừa giải quyết các vấn đề xã hội, chăm sóc phát triển con người. Vừa
bảo đảm việc làm đầy đủ cho người lao động, vừa từng bước xây dựng chế độ bảo
đảm xã hội cho toàn dân.
Về mặt đối ngoại, ông đề xuất:
1
– Từ bỏ nhận định cũ về thời đại, coi thời đại là “ quá độ từ CNTB lên CNCS
trên quy mô toàn thế giới bắt đầu từ CM tháng 10 Nga” mà chấp nhận nhận định “
thời đại ngày nay là thời đại hoà bình và phát triển, là thời đại chuyển lên
nền văn minh trí thức”.
2–
Xác lập quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trên cơ sở Trung Quốc là “đối tác chiến
lược quan trọng hàng đầu”, từ bỏ chủ trương coi Trung Quốc là kẻ thù truyền
kiếp, hoặc coi Trung Quốc là đồng minh chiến lược. 16 chữ lâu nay vẫn nói về
quan hệ Việt – Trung là vận dụng chung các nước láng giềng, không loại trừ nước
nào, không phải chỉ để ứng xử riêng với Trung Quốc. Cần có sự phân tích cụ thể
hơn các vùng lãnh thổ (biên giới trên bộ, vịnh Bắc bộ, quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa), kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị ….
3
– Xác lập quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ trên cơ sở Hoa Kỳ là “Đối tác chiến lược
quan trọng hàng đầu”, từ bỏ coi đế quốc Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân
dân ta. Từ bỏ chính sách hai mặt thân thiện bên ngoài, còn bên trong thì coi là
kẻ thù, là đối tượng. Xử lý đúng mức với các vấn đề tranh chấp quyền lợi trong
thương mại và trong những đợt nhận xét của chính phủ Hoa Kỳ về những cách xử sự
đối với tôn giáo, dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam . Tranh thủ tối đa mối quan hệ
Việt Nam – Hoa Kỳ để phát triển kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật, kể cả
vấn đề giữ gìn hải đảo và biển Đông vv…, khắc phục những hoạt động khiêu khích
ngay từ trong nội bộ Tổng cục II – Bộ Quốc Phòng, gây thiệt hại lớn cho Tổ quốc
Việt Nam trong tình hình thế giới hiện nay
4
– Suy nghĩ chuyển đổi Bộ Ngoại Giao thành Bộ Quan hệ Đối ngoại phụ trách tất cả
mối quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá … tránh sự phân cắt, tốn kém như hiện
nay”.
***
Lê Hồng Hà đã ở tuổi 84. Vóc dáng ông vốn chỉ thanh
mảnh nhưng nhờ trời tinh thần ông vẫn còn minh mẫn, trí nhớ ông vẫn tuyệt vời.
Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội hãy sám hối đối với ông về những nhận thức
sai lầm, những đối xử tệ bạc và tàn nhẫn đối với một công thần của cách mạng,
một trí thức đáng kính như ông. Hãy đền đáp những gì ông xứng đáng. Hãy trân
trọng và lắng nghe ông, đặc biệt là trong những ngày đang chuẩn bị hoàn chỉnh
Cương lĩnh mới và Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI này.
(Rút trong cuốn “ĐÊM DÀY LẤP LÁNH”)
Nguyễn Thanh Giang /Mobi: 0984 724165/(Tác
giả gửi BVB)
---------------
Người tử tế nhìn mặt cũng thấy.
Trả lờiXóaBọn tham nhũng mặt trông kinh bỏ mẹ: LHA, TTPhóng!
Nhà bác học Albert Einstein : "Không thể chống lại bọn ngu vì chúng quá đông".
Trả lờiXóaNén nhan hương tiễn biệt một Người Hà Nội phản tỉnh về với Dân Tộc
***********************
Tiễn biệt Anh LÊ HỒNG HÀ ....
https://www.youtube.com/watch?v=zjxwYPMA3-8
Một thuở Sông Hồng đỏ máu
Một cơn gió bụi giết nhau
Ý hệ sát nhân oan nghiệt
Mùa Thu Tháng Tám oán sầu !
Lợi dụng nhiệt tình bội phản
Lòng yêu Nước hóa Bể dâu
Thương tiếc đời hàng chục triệu
Cuốn theo gió lốc nát nhầu
May còn ít Người phản tỉnh
Dù muộn màng thấy thương nhau
Cỗ máy sát máu tàn khốc
Lời nguyền còn mãi Ngàn sau
Triệu nạn nhân lẫn đao thủ
Chẳng qua nạn nhân bọn Tàu
Hồ Lập Chương - Mao Xếnh Xáng
Thâm hiểm còn mãi Ngàn sau
Thôi nhé về Lòng Đất Mẹ
Rộng lương bao dung hiểu sâu
Từ nay hóa thân thanh tẩy
Dù muộn màng thấy thương nhau
Hồng Hà ăn năn vẫy gọi
Chút Lương tri còn trong đầu
Hồng Hà kêu gọi sám hối
Chút Lương tâm trong tim đau
Bốn triệu Đảng viên thức tỉnh
Về với Dân tộc cùng nhau .. ..
Bốn triệu Đảng viên thức tỉnh
Về với Đồng bào cùng nhau .. ..
Đại Ziên Hồng chờ Bốn triệu
Về với Tổ Quốc cùng nhau .. ..
TRIỆU LƯƠNG DÂN