GS. Carlyle A. Thayer |
Lời giới thiệu
Việt Nam là một quốc gia nữa toàn trị, độc đảng cai
trị bởi Đảng Cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN) là hệ thống chính trị tương đồng với Trung Quốc và nước theo chủ nghĩa
Mác-Lênin mà giờ đây đã đi vào lịch sử. Hệ thống chính trị của Việt Nam là
một tổ chức xã hội chủ nghĩa và đơn nhất [1].
Đây là một hệ thống chính trị mà trong đó Đảng độc
quyền kiểm soát toàn bộ các tổ chức nhà nước, lực lượng vũ trang và các tổ chức
đoàn thể xã hội thông qua sự thâm nhập vào các tổ chức này bởi các đảng viên và
các cấp đảng ủy. Đảng viên cao cấp tạo thành hạt nhân lãnh đạo của bộ máy Nhà
nước, Quốc hội, Lực lượng vũ trang nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (VFF –
Vietnam Fatherland Front).
Mặt
Trận Tổ Quốc là một tổ chức bao trùm hai mươi chín tổ chức đoàn thể đã đăng ký
(Phụ nữ, công nhân, nông dân, thanh niên) và các nhóm lợi ích đặc biệt (chuyên
nghiệp, tôn giáo v.v…). Các nhà lãnh đạo của các tổ chức đoàn thể thường phục
vụ trong Ủy ban Trung ương Đảng.
Tất cả các tổ
chức liên kết với Mặt trận Tổ quốc đều được tài trợ của nhà nước.
Vào cuối năm 1986 Việt Nam đã thông qua một chương trình
cải cách được gọi là “Đổi Mới”. Việt Nam đã mở cửa cho đầu tư nước ngoài và dần
dần chuyển nền kinh tế theo mô hình Liên Sô theo kinh tế kế hoạch tập trung
[trước đâ] sang mô hình một "nền kinh tế thị trường với đặc thù xã hội chủ
nghĩa" của Việt Nam và việc này đã dẫn đến việc mở rộng quan hệ đối ngoại
của Việt Nam ra ngoài khuôn khổ các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa và các
nước không liên kết ra các nước Nhật Bản, Australia, Hoa Kỳ và Châu Âu.
Khi Việt Nam khởi sự hòa
nhập vào nền kinh tế toàn cầu, họ đã đi tìm những hổ trợ phát triển từ các đối
tác mới, các tổ chức phi chính phủ quốc tế (INGO). Các cơ quan viện trợ nước
ngoài và các INGOs đã cố gắng áp dụng mô hình phát triển riêng của họ vào Việt
Nam với hy vọng tạo ra không gian cho xã hội dân sự bằng cách hổ trợ ưu tiên
cho vai trò của các "tổ chức phi chính phủ" trong nước (NGOs) [2].
Trong thực tế, điều này có nghĩa là theo đuổi phương
pháp tiếp cận "từ dưới lên" nhấn mạnh phát triển là có sự tham gia và
không phân biệt nam nữ và dân tộc.
Cách tiếp cận để phát triển này có vấn đề trong ý rằng
không có một tổ chức phi chính phủ tự trị nào ở Việt Nam . Tất cả các tổ chức đoàn thể và
các tổ chức ngoại biên của họ đều được nhà nước tài trợ và hình thành như một
phần của mạng lưới tổ chức của MTTQ [3]. Nói cách khác tổ chức đoàn thể của
Việt Nam
không phải là đại diện đích thực của xã hội dân sự.
Khi cải cách
được mở ra với chính sách “Đổi Mới”, quan hệ nhà nước-xã hội đã bắt đầu thay
đổi. Trong những năm 1990 đã có một sự bùng nổ về hoạt động của nhiều tổ chức
trong các tầng lớp ở Vietnam
[4]. Có rất nhiều mạng [xã hội] và các nhóm nổi lên. Đặc biệt, có một sự tăng
trưởng bùng nổ của các hiệp hội dựa vào cộng đồng tự nguyện phi chính phủ (CBO
– Community Base Organization) đã diễn trong quần chúng. Họ đóng vai trò dẫn đường trong việc quản lý tài
nguyên thiên nhiên, chống ô nhiễm môi trường, thúc đẩy phát triển bền vững, tạo
thu nhập, và phổ biến kiến thức. Những nhóm này mới có thể được gom thành chín
loại: chính trị, tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp, thương mại và chuyên nghiệp,
khoa học và công nghệ, nghệ thuật và văn hóa, phúc lợi xã hội / NGO, tôn giáo,
các hội thân hữu và sinh hoạt công cộng [5].
Các tổ chức
gọi là phi chính phủ và tổ chức cộng đồng của người Việt có vai trò khá khác so
các tổ chức tương đương của nước ngoài. Đầu tiên, họ cho mình là đối tác làm
việc trên các dự án phát triển để hỗ trợ cho các chính sách của nhà nước. Thứ
hai, họ xem mình là người đi cổ động cho việc cải thiện các dịch vụ của nhà
nước. Và cuối cùng, họ xem mình là đại diện cho các nhóm bị thiệt thòi và vận
động nhà nước thay đổi chính sách. Trong
vai trò này các “NGO Việt” đã cố gắng thương lượng và giáo dục các quan chức
nhà nước chứ không phải đối đầu với họ là chiến thuật để mang lại thay đổi. Nói
cách khác, các hoạt động của "NGO" Việt Nam là hỗ trợ trực tiếp các chương
trình của chính phủ hiện hành hoặc hỗ trợ các mục tiêu chính sách lớn hơn mà
nhà nước đưa ra (như phát triển quốc gia, xóa đói giảm nghèo). Tuy nhiên, thời
gian qua, "NGO Việt” đã mở rộng vai trò của mình để bao gồm việc vận động
cho vai trò của họ. Họ bắt đầu trực tiếp tham gia vào các cơ quan chính phủ để
tư vấn cho họ các kỹ thuật mới và các cách để đạt được mục tiêu của chính phủ.
Sự phát triển của các tổ chức hoạt động cộng đồng
(CBO) tăng nhanh hơn khả năng phát triển một khung pháp lý vì sự đa dạng của
các nhóm Việt Nam .
Một số tổ chức hoạt động cộng đồng tương đối độc lập với nhà nước. Dù tình
trạng pháp lý của họ là không rõ ràng nhưng họ vẫn thường được để yên. Nhưng họ
luôn có nguy cơ bị dẹp bỏ nếu các hoạt động của họ chạm vào các vấn đề nhạy cảm
về chính trị [6].
Sự sôi nỗi
này trong xã hội Việt Nam đã làm suy yếu hệ thống độc xã hội chủ nghĩa quyền
của Việt Nam và mở ra một không gian để các cá nhân và các nhóm nhỏ thách thức
hệ thống độc đảng của Việt Nam [7]. Từ giữa đến cuối thập niên 1990, Việt Nam
đã chứng kiến những cuộc biểu tình của công chúng về các vấn đề chính trị rất
nhạy cảm như tự do tôn giáo, nhân quyền và cải cách dân chủ. Sự ra đời của
Internet cung cấp phương tiện cho các cá nhân và các nhóm để vượt qua sự cô lập
vật lý và thành lập những mạng lưới xã hội trong không gian mạng [8].
Đến năm 2006 có ít nhất mười một tổ chức có thể được
xác định: Liên Minh Dân Chủ, Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị, Ủy ban Nhân quyền, Đảng
Dân chủ Việt Nam, Hiệp hội Nhà báo Độc Lập Việt Nam, Ủy ban Cứu quốc, Đảng Dân
chủ Nhân dân Việt Nam, Đảng Dân Chủ Thế kỷ 21, Liên Minh Công Nông, Đảng Vì Dân
Việt Nam và Đảng Tiến bộ Việt Nam. Nói chung, các nhóm nhỏ và thiếu một chính
nghĩa lớn nhưng họ đã đánh dấu bước đầu trong sự xuất hiện của xã hội dân sự
chính trị tại Việt Nam .
Bởi vì các nhóm này đứng bên ngoài khuôn khổ pháp lý của nhà nước dành cho
"NGO" và tổ chức cộng đồng và bị nhà nước coi là bất hợp pháp.
Tóm lại, sự
phát triển của xã hội dân sự chính trị ở Việt Nam đã tạo ra một mối liên hệ giữa
công luận từ quần chúng và nhà nước độc đảng. Khi Việt Nam mở ra và tích hợp
mình trong nền kinh tế toàn cầu, các nhà hoạt động chính trị Việt Nam đã tìm
cách gây ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại bằng cách tranh thủ sự ủng hộ của
công chúng về một số vấn đề khác nhau, từ tự do tôn giáo, nhân quyền, dân chủ,
vấn đề môi trường, và tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc ở Biển Đông.
Mối liên kết giữa các yếu tố trong nước và chính sách
đối ngoại của Việt Nam
được thảo luận dưới đây trong sáu phần. Phần một mang một
cái nhìn tổng quan về các yếu tố chính của khung chính sách đối ngoại của Việt Nam . Phần
hai thảo luận về các yếu tố trong nước tác động đến chính sách đối
ngoại. Phần thứ ba xác định các vấn đề quan trọng dẫn dắt chính
sách đối ngoại của Việt Nam . Phần
bốn đánh giá Việt Nam
tiến hành như thế nào các mối quan hệ của mình với các nước lớn. Phần năm quan
sát các nỗ lực của Việt Nam
để thúc đẩy hội nhập quốc tế. Phần sáu kết luận bài viết với một đánh giá các
tác động của những phát triển này đối với Hoa Kỳ.
Phần 1: Chính sách đối ngoại
Phần này thảo luận bốn chủ đề chính là khung để hình
thành chính sách đối ngoại của Việt Nam : độc lập và tự chủ, đa phương
hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại, đấu tranh và hợp tác, chủ động hội nhập
quốc tế.
Chủ đề quan trọng đầu tiên của chính sách đối ngoại
hiện nay của Việt Nam
là sự căng thẳng về sự độc lập và tự chủ. Điều này dựa trên ba di sản lịch sử (1) đề kháng với sự can thiệp
của nước ngoài trong thời kỳ thuộc địa và hậu thuộc địa, (2) là một thành viên
của phe xã hội chủ nghĩa khi Việt Nam đã bị kẹt trong làn đạn của tranh chấp
Trung-Xô, và (3) là một đồng minh của một Liên Xô đang suy tàn trong thời gian
thập kỷ dài can thiệp tại Campuchia. Việt Nam đã bị cô lập sau khi Liên Xô
sụp đổ vào cuối năm 1991. Theo Sách Trắng Quốc phòng của Việt Nam , việc "Việt Nam luôn nhận ra phương châm đối
ngoại độc lập [và] tự chủ... " [9] được minh chứng bằng chính sách quốc
phòng ba không của: "Việt Nam kiên trì chủ trương không tham gia
bất kỳ liên minh quân sự và cũng không đưa ra bất kỳ sự cho phép nào để các
nước khác đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để thực hiện các
hoạt động quân sự chống lại các nước khác." [10]
Chủ đề chính thứ hai của chính sách đối ngoại của Việt
Nam
là đa phương đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại. Vào ngày 20 Tháng 5 năm 1988, Bộ Chính trị đảng Cộng
sản đã thông qua một văn kiện chính sách đột phá được gọi là Nghị quyết số 13
mang tên "Nhiệm vụ và Chính sách đối ngoại trong tình hình mới". Văn
kiện chính sách này hệ thống hóa các mục tiêu đối ngoại của Việt Nam bằng cách
ưu tiên cho phát triển kinh tế và định hướng một "chính sách đối ngoại đa
phương" với mục tiêu "thêm bạn, bớt thù”. Cụ thể, Nghị quyết 13 muốn
Việt Nam thoát khỏi cuộc xung đột ở Campuchia để bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc, phát triển quan hệ với các thành viên của Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN), Nhật Bản, Âu Châu và "từng bước" bình thường hóa
quan hệ với Hoa Kỳ [11].
Các phiên bản kế tiếp của "chính sách đối ngoại
đa chiều" của Việt Nam đã diễn ra trong Đại hội toàn quốc lần thứ VII của
ĐCSVN tổ chức từ ngày 24-ngày 27 tháng 6, năm 1991. Đại hội VII bấy giờ muốn
Việt Nam
"đa dạng hóa và đa phương quan hệ kinh tế với tất cả các nước và các tổ
chức kinh tế... không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau" [12].
Báo cáo chính trị dành ưu tiên cho quan hệ với Liên Xô, Lào, Campuchia, Trung Quốc , Cuba ,
và các "đảng cộng sản và lao động” khác, các" lực lượng đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội ", Ấn Độ, và Phong
trào không liên kết.
Đáng chú ý là Báo cáo chính trị tập trung vào sự phát
triển các "quan hệ hữu nghị" với khu vực Đông Nam Á, quan hệ đôi bên
cùng có lợi với các nước Bắc Âu và Tây Âu, Nhật Bản, các nước phát triển khác
và bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ [13]. Việt Nam đã thành công với các mục tiêu
này. Trong giai đoạn 1991-95 Việt Nam bình thường hóa quan hệ với tất cả các
thành viên của ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Châu Âu và Hoa Kỳ [14]. Năm 1995,
Việt Nam
đã mở rộng số lượng từ 23 nước đã có quan hệ ngoại giao trước đó vào năm 1989
lên đến con số 163.
Chính sách đa phương và đa dạng hoá các quan hệ đối
ngoại của Việt Nam
đã được xác nhận qua tất cả các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc tiếp theo từ thứ Tám
(1996) đến gần đây nhất. Ví dụ, Báo cáo Chính trị của Đại hội toàn quốc lần thứ
Mười Hai được tổ chức vào tháng 1 năm 2016 đã nói: "Để đảm bảo thực
hiện thành công chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế... luôn thực hiện
chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển... [và ]
đa dạng hóa và đa phương quan hệ bên ngoài. "
Chủ đề chính thứ ba của chính sách đối ngoại của Việt Nam là
"vừa hợp tác và vừa đấu tranh." Nghị quyết số 13 của Việt Nam vào tháng 5 năm 1988 giới thiệu các
khái niệm về lợi ích dân tộc lần đầu tiên. Sau khi quan hệ với Trung Quốc đã
được chuẩn hóa vào năm 1991, việc trở nên rõ ràng rằng hai quốc gia xã hội chủ
nghĩa có lợi ích quốc gia khác nhau, đặc biệt là trên Biển Nam Trung Hoa (được
thảo luận dưới đây). Sau khi bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ vào năm 1995,
việc cũng trở nên rõ ràng rằng Việt Nam xã hội chủ nghĩa và Hoa Kỳ có
lợi ích quốc gia hội tụ.
Trong tháng 7 năm 2003, Ủy ban Trung ương đảng cộng
sản đã ban hành Nghị quyết số 8, "Ngày Quốc phòng của Tổ quốc trong tình
hình mới". Nghị quyết này lưu ý rằng thường có những đụng chạm và bất đồng
với các nước bạn bè và cũng có các lãnh vực có thể hợp tác và những lợi ích
chung đối với nước có đối kháng. Nghị quyết số 8 thông qua khái niệm đôi là
"đối tượng hoặc đối tác hợp tác" và "đối tượng đấu tranh,"
tương ứng với hai chủ thể “đối tác” và “đối tượng” [15]. Trước khi thông qua
Nghị quyết số 8, Trung Quốc đã được phân loại như là một đất nước thân thiện,
vì nó là xã hội chủ nghĩa và Hoa Kỳ được xem là một đối thủ. Nghị quyết số 8
phê chuẩn sự hợp tác với cả các nước thân thiện và đối lập, và đấu tranh chống
lại bất kỳ nước nào làm tổn hại lợi ích quốc gia của Việt Nam . Trong năm
2013, nhân dịp kỷ niệm lần thứ Mười của Nghị quyết số 8, Bộ Chính Trị Đảng CSVN
tiến hành xem xét việc thực hiện Nghị quyết này và tái khẳng định chính sách
"vừa hợp tác và vừa đấu tranh."
Chủ đề chính thứ tư của chính sách đối ngoại của Việt Nam là thúc đẩy
hội nhập quốc tế. Như đã nói ở
trên, Việt Nam
đầu tiên thúc đẩy hội nhập kinh tế và sau đó mở rộng việc này để hội nhập chính
trị-kinh tế. Năm 2011, Đại hội Đảng toàn quốc XI đã thông qua chủ động hội nhập
quốc tế của Việt Nam .
Báo cáo Chính trị của Đại hội toàn quốc lần thứ Mười Hai và gần đây nhất vào
năm 2016 đã nói: "Để đảm bảo thực hiện thành công chính sách đối
ngoại và hội nhập quốc tế... [Việt Nam phải] chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế; là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc
tế... "
Phần 2: Các yếu tố trong nước
Phần này bàn về ba yếu tố chính ảnh hưởng đến quá
trình ra quyết định chính sách ngoại giao của Việt Nam :
(1) các nguồn gốc về sự chính danh chính trị của nhà nước độc đảng của Việt Nam , (2) bè
phái trong tầng lớp lãnh đạo ĐCSVN, và (3) các diễn viên mới trong nước.
Thứ nhất, Cộng
hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) trước đây mang tên Cộng hòa Dân chủ
Việt Nam (DRV) được thành lập vào năm 1954 sau khi Việt Nam bị chia cách. Năm
1975, Việt Nam
được thống nhất. Kể từ năm 1954, ĐCSVN đã dựa trên ba nguồn gốc để tuyên bố
tính chính danh chính trị của họ là (1) chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân
tộc, (2) họ có quyền là hợp lý và (3) là do công lao của họ.
Cộng sản VN được thành lập vào năm 1930 và huy động
thành công nhân dân Việt Nam
đứng lên chống lại và liên tiếp đánh bại sự can thiệp của nước ngoài, như đã
nói ở trên. Cộng sản VN đã kêu gọi lòng yêu nước và chủ nghĩa dân tộc để vượt
qua những khác biệt địa phương và tôn giáo. Tuy nhiên, sau khi thống nhất đất
nước, những kêu gọi dân tộc chủ nghĩa của ĐCSVN đều bị rơi vào tai điếc của
người Việt sinh sống ở cả trong và ngoài nước, những người đã ủng hộ miền Nam
Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975); họ đã bị bôi nhọ là con rối của Mỹ [16].
Năm 1976, Lê Duẩn, lãnh đạo đảng 1960-86, đã tuyên bố
rằng, "đất nước này và chủ nghĩa xã hội là một " [17]. Tuy nhiên,
trong giai đoạn 1976-86, lòng yêu nước và chủ nghĩa dân tộc, tuy vẫn còn là
nguồn quan trọng về sự chính danh của chế độ, đã bị vượt qua bởi sự nhấn mạnh
của ĐCSVN về tính chính danh hợp lý. Trong thời gian này ĐCSVN áp đặt mô hình
tổ chức xã hội chủ nghĩa độc tôn lên phía Nam . Điều này đã được minh chứng
bằng việc thông qua Kế hoạch năm năm lần thứ 2 của Việt Nam (1976-1981)
và một Hiến pháp mới được ban hành vào năm 1980.
Sau 1986, ý thức hệ Mác-Lênin đã bị suy giảm khi ĐCSVN
bắt đầu tuyên truyền cho "tư tưởng Hồ Chí Minh" để củng cố tính chính
danh của mình [18]. Việc ĐCSVN tập trung vào đổi mới kinh tế đã nhanh chóng trở
thành nguồn chính về tính chính danh của chế độ, đó là hiệu suất của họ. Trong
những năm 1990 tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam đã tăng trưởng khoảng bảy phần
trăm một năm và trung bình 6,47 phần trăm từ năm 2000 đến năm 2016.
Yếu tố thứ hai ảnh
hưởng đến chính sách đối ngoại là phe nhóm trong tầng lớp lãnh đạo. Mặc dù có
sự thay đổi trong quan hệ “nhà nước-xã hội” do sự tăng trưởng bùng nổ của các
tổ chức quần chúng và việc một khu vực tư nhân phát triển như một hệ quả của
tăng trưởng kinh tế cao, các hoạt động bên trong cơ cấu quyền lực của Việt Nam vẫn còn che
kín. Các học giả và các nhà phân tích đã nhìn vào các phe nhóm như một dụng cụ
tìm kiếm để phân tích những thay đổi về chính sách.
Trong Chiến tranh Lạnh các học giả và các nhà phân
tích tranh luận liệu có phe thân Liên Xô và ủng hộ Trung Quốc trong ĐCSVN [19].
Sau khi đất nước thống nhất, sự quan tâm học thuật lại sành điệu quay sang xem
coi có phe bảo thủ hay cải cách trong đảng cộng sản không; học giả khác lại
thừa nhận là có ba nhóm: nhóm giáo điều, nhóm lợi ích và nhóm cải cách [20].
Khi tranh chấp lãnh thổ của Việt Nam với Trung Quốc ở Biển Đông là trung tâm
(xem dưới đây), các học giả và các nhà phân tích đã tranh luận làm thế nào để
mô tả sự sắp xếp, lãnh đạo trong nhà nước độc đảng của Việt Nam. Một số lập
luận rằng họ thấy có phe thân Trung Quốc và phe thân Hoa Kỳ. Tác giả này
[Thayer?] đã lập luận rằng không có phe ủng hộ Trung Quốc và phe ủng hộ Mỹ tại
Việt Nam va lãnh đạo được chia trên cơ sở làm thế nào để quản lý các mối quan
hệ với hai cường quốc này (xem thảo luận trên HD 981 cuộc khủng hoảng dưới đây).
Trước Đại hội toàn quốc lần thứ Mười Hai của ĐCSVN, rõ
ràng rằng đã có sự chia rẽ trong lãnh đạo của Việt Nam trên vấn đề tập trung dân chủ
và tập thể lãnh đạo của họ. Trong 10 năm là Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, Văn phòng Thủ tướng Chính phủ (và bộ máy nhà nước)
được nổi lên như là một tổ chức mạnh mẽ hơn ĐCSVN. Thủ tướng Chính phủ chủ trì
một thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao và đưa ra một "chính sách đầu tiên của
Việt Nam" nhằm xây dựng các doanh nghiệp nhà nước khổng lồ được gọi là các
tập đoàn. Kết quả là một mạng lưới “chủ nhân-khách hàng” đã nổi lên dưới thời
Dũng và một số người được hưởng lợi từ chính sách đó đã trở thành những kẻ tham
nhũng.
Trong khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cố gắng kéo dài
thời gian giữ chức của mình bằng cách tìm kiếm sự miễn trừ đặc biệt về hạn chế
tuổi và giới hạn nhiệm kỳ để trở thành Tổng Bí Thư đảng thì một liên minh
"bất cứ là gì nhưng không có Dũng" được hình thành đứng sau người nắm
chức vụ lãnh đạo đảng Nguyễn Phú Trong [21]. Dũng thua cuộc và bị cho về hưu.
Trọng được bổ nhiệm thêm một nhiệm kỳ thứ ba là điều chưa từng có với kỳ vọng
rằng ông này sẽ từ chức khi một sự thay thế phù hợp đã được tìm thấy.
Yếu tố thứ ba ảnh
hưởng đến chính sách đối ngoại là sự xuất hiện trong nước một diễn viên mới gồm
cả cán bộ hưu trí và các thành viên của những gì có thể được gọi một cách lỏng
lẻo là xã hội dân sự chính trị.
Kể từ khi đất nước thống nhất năm 1976, vai trò chính
trị của các đảng viên, cán bộ nhà nước đã nghỉ hưu và các cựu chiến binh quân
đội đã trở nên nổi bật hơn, đặc biệt là khi nguồn gốc của sự chính danh chính
trị của ĐCSVN đã bị thay đổi [22]. Ngày càng nhiều các cán bộ về hưu và các
mạng lưới quan chức hưu trí đã hoạt động đưa kiến nghị bằng văn bản và thư
ngỏ đến các nhà lãnh đạo hàng đầu của đảng và nhà nước về một số vấn đề nóng về
chính sách, gồm các vấn đề môi trường và mối quan hệ với Trung Quốc. Như sẽ
được thảo luận trong phần ba dưới đây, cán bộ hưu trí đóng một vai trò nổi bật
trong việc phản đối khai thác bauxite và phản đối vi phạm của Trung Quốc về chủ
quyền Việt Nam
ở Biển Đông.
Giữa các năm 2004-06, dựa trên sự sôi nỗi của hoạt
động các tổ chức được thảo luận trên đây, một con số chưa từng có về các tổ
chức chính trị được thành lập gồm một số ít các cá nhân ngoài đảng. Các nhóm
chính trị mới phát huy dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo và quyền của người
lao động và đối đầu với nhà nước độc đảng của Việt Nam [23].
Năm 2006, một phát triển mới quan trọng là các nhà
hoạt động ủng hộ dân chủ và các nhóm chính trị kết hợp lại thành một mạng lưới,
đánh dấu một bước phát triển mới trong chính trị Việt Nam [24]. Ngày
06 tháng Tư 2006, 116 người đã ra tuyên cáo đòi “Quyền được tự do lập hội chính
trị” mà họ phân phối trên toàn Việt Nam qua các Internet. Ngày 8 tháng Tư năm
2006, 118 người đã ban hành “Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Vietnam ” [25].
Những phát biểu kêu gọi nhà nước Việt Nam tôn trọng các quyền cơ bản về
con người và tự do tôn giáo và cho phép các công dân được tự do liên kết và
hình thành các đảng chính trị [26]. Những khiếu kiện ủng hộ dân chủ được biết
là Khối 8406, theo ngày tuyên ngôn thành lập của họ.
Khối 8406 đại diện cho một mạng lưới đa dạng gồm các
chuyên gia chủ yếu tập trung ở các trung tâm đô thị trong nước, đặc biệt là ở
Huế, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng và Cần Thơ. Khối 8406
công bố ấn phẩm hai tuần một lần, Tự Do Ngôn Luận trong cả hai định dạng bản in
và điện tử. Đến cuối năm của các nhà quan sát nước ngoài báo cáo rằng các cơ sở
hỗ trợ cho Khối 8406 đã mở rộng đến hơn hai ngàn thành viên, nhiều người ở độ
tuổi dưới ba mươi [27]
Trong tháng 8 năm 2006, Khối 8406 công bố công khai
một chương trình bốn giai đoạn cho dân chủ trong đó có việc khôi phục các quyền
tự do dân sự, thành lập các đảng phái chính trị, soạn thảo một Hiến pháp mới và
các cuộc bầu cử dân chủ cho các đại biểu Quốc hội [28]. Tiếp theo, vào tháng 10
năm 2016, Khối 8406 đã đưa ra một bức thư ngỏ đến các nhà lãnh đạo chính phủ
tham dự hội nghị thượng đỉnh thường niên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á
Thái Bình Dương (APEC) tại Hà Nội vào cuối năm đó. Kháng thư này yêu cầu sự
giúp đỡ của họ trong việc thúc đẩy dân chủ ở Việt Nam . Một thời gian ngắn sau, Khối
8406 thành lập một liên minh với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và Liên
minh Việt Nam Dân chủ và Nhân quyền.
Sau Hội nghị thượng đỉnh APEC các cơ quan an ninh bắt
đầu trấn áp Khối 8406 bằng cách bắt giữ một số lãnh đạo cao cấp của Khối. Họ đã
được đưa ra xét xử một cách chiếu lệ và bị cầm tù. Kết quả là vào năm 2009 Khối
8406 đã bị tan rã.
Tóm lại, chương trình cải cách Đổi Mới của Việt Nam đã chuyển
nguồn gốc tính chính danh hợp pháp của ĐCSVN từ chủ nghĩa dân tộc và quyền hạn
pháp lý sang thành tích xây dựng. Đổi Mới đã mở rộng phạm vi cho phe nhóm lãnh
đạo trong bộ máy nhà nước đạt được quyền kiểm soát nhiều hơn các nguồn lực và
làm suy yếu vai trò bá chủ của ĐCSVN. Đảng viên, cán bộ nhà nước đã nghỉ hưu và
các cựu chiến binh quân sự ngày càng bày tỏ quan điểm của họ về cả chính sách
trong nước và nước ngoài. Ngoài ra, tiếng nói từ bên ngoài cơ cấu quyền lực
truyền thống bắt đầu khuấy động cho dân chủ, tự do tôn giáo và các mối quan tâm
khác.
Phần 3: Những vấn đề chính dẫn dắt chính
sách đối ngoại
Trong suốt thời gian tranh chấp Trung-Xô (1956-1989),
lãnh đạo chính trị đã chủ đạo ra quyết định chính sách đối ngoại của Việt Nam mà không
cần quan tâm đến công luận. Như đã nói ở trên, năm 2006 hoạt động nhân quyền
ủng hộ dân chủ đã thực hiện các nỗ lực lớn đầu tiên tại Việt Nam để liên kết
cải cách chính trị trong nước với chính sách đối ngoại khi họ kiến nghị đến
các nhà lãnh đạo của chính quyền các nước dự hội nghị thượng đỉnh APEC tại Hà
Nội.
Phần này xem xét lý do tại sao mối quan hệ với Trung
Quốc đã trở thành yếu tố định hướng quan trọng trong nước tác động lên chính
sách đối ngoại hiện nay của Việt Nam . Các nhà hoạt động ở Việt Nam đã nắm bắt ít nhất hai vấn đề chính liên
quan đến mối quan hệ với Trung Quốc là vấn đề môi trường trong khai thác tài
nguyên và mối đe dọa của Trung Quốc về chủ quyền của Việt Nam ở Biển
Đông. Khi quan hệ với Trung Quốc trở nên nổi bật trong chính trị trong nước thì
một số vấn đề có thứ tự nhỏ hơn đã trở thành món kèm theo trong tranh cãi này,
chẳng hạn như thặng dư của Trung Quốc rất lớn thương mại, hàng kém chất lượng
của Trung Quốc, chất lượng thấp của các dự án cơ sở hạ tầng, và việc nhập khẩu
lao động Trung Quốc vào Việt Nam.
Dư luận về quan hệ với Trung Quốc đã trở nên độc hại
và nó đặt ra một thách thức nghiêm trọng đối với tính chính danh chính trị của
chế độ độc đảng của Việt Nam .
Các nhà hoạt động chống Trung Quốc cáo buộc các nhà lãnh đạo của họ không đứng
lên mạnh mẽ, đủ để chống lại quyết đoán của Bắc Kinh ở Biển Đông. Điều này đã
cắt xén tuyên bố của chế độ là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc là một
trong những nguồn gốc chính của họ về tính chính danhchính trị.
Tranh cãi về dự án khai mỏ Bauxite.
Năm 2009 các nhà lãnh đạo của Việt Nam đã phải đối mặt
với một sự lan rộng của liên minh ưu tú [học giả và trí thức] phản đối kế hoạch
phát triển công nghiệp khai thác mỏ bauxite ở miền trung Việt Nam của họ với sự
hợp tác của một công ty Trung Quốc. Vấn đề môi trường liên quan đến ô nhiễm độc
hại của đường thủy hạ lưu ở các khu vực sinh sống của dân tộc thiểu số trở nên
gắn chặt với vấn đề an ninh quốc gia về việc cho phép sự hiện diện của Trung
Quốc ở Tây Nguyên của Việt Nam .
Năm 2006 Việt Nam đã ban hành một cuộc đấu thầu
để khai thác bauxite. Công ty Nhôm Trung Quốc (Chalco) hợp tác với Tập Đoàn
Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã giành chiến thắng trong cuộc đấu giá. Một
thỏa thuận khung giữa hai công ty được ký kết vào tháng 11 năm 2006 bên lề Hội
nghị Thượng đỉnh APEC và được sự chứng kiến của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm
Đào [29]. Chalco đồng ý xây dựng hai nhà máy alumin, một tại Nhân Cơ, tỉnh Đắk
Nông và một tại Tân Rai, tỉnh Lâm Đồng.
Năm 2008 một số lượng nhỏ các nhà môi trường và các
nhà khoa học Việt lên tiếng lo âu trong kế hoạch phát triển khai thác bauxite
trong sự vắng mặt của một nghiên cứu tác động môi trường. Tiếng nói của họ đã
bị phần lớn gạt đi. Sau đó, vào tháng Giêng năm 2009, vấn đề bauxite đột nhiên
trở thành một vấn đề quốc gia khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp lần đầu tiên đã đưa
ra ba thư ngỏ (ngày 05 tháng 1, 09 tháng 4 năm 2009 và ngày 20 tháng 5 năm
2009). Ông lập luận rằng việc khai thác bauxite sẽ hủy hoại môi trường, di dời
người dân tộc thiểu số bản địa và, đáng kể nhất là đe dọa an ninh quốc gia với
các dòng của công nhân Trung Quốc vào Tây Nguyên chiến lược và bằng cách cung
cấp cho Trung Quốc một đòn bẩy kinh tế.
Ngày 30 tháng tư năm 2009 một bản kiến nghị chống
bauxite có chữ ký của 135 học giả và trí thức đã được gửi đến Quốc hội. Kiến
nghị này đã nói: "Trung Quốc đã nổi tiếng trong thế giới hiện đại như là
một quốc gia gây ô nhiễm lớn nhất và các vấn đề khác." [30]
Ngày 07 tháng năm năm 2009 kỷ niệm 55 năm trận Điện
Biên Phủ, Tướng Giáp nói với các nhà lãnh đạo đến chúc sức khoẻ ông, "Tôi
hy vọng các ông chú ý đến việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Đây là một vùng
chiến lược của đất nước, rất quan trọng về quốc phòng và an ninh, không chỉ đối
với Việt Nam nhưng cả đối với Đông Dương. " [31] Giáp đã có sự tham gia
của Tướng về hưu Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu đại sứ tại Trung Quốc, người đã viết
một bức thư ngỏ kêu gọi Bộ Chính trị xem xét lại kế hoạch để cho Trung Quốc
thiết lập một sự hiện diện thường trực tại cao nguyên miền Trung [32].
Theo một
nghiên cứu chi tiết của những tranh cãi bauxite: Các
cuộc tranh luận công khai về việc khai thác bauxite phát triển thành một cuộc
tranh cãi quốc gia và quốc tế. Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác
gần như ngay lập tức chuyển động để kiểm soát và trấn áp những cuộc tranh luận
công cộng. biện pháp của họ là vừa trả lời và đàn áp. Việc đó bao gồm một lệnh
cấm báo chí trong nước được viết thêm về chủ đề khai thác bauxite trong tháng
Giêng năm 2009, và sau đó là việc bắt giữ các blogger và đưa ra các biện pháp
đàn áp trực tiếp hơn trong nửa cuối năm 2009. Tuy nhiên, phản ứng của nhà nước
cũng bao gồm các loại đối thoại khác nhau với các nhà phê bình dự án, bao gồm
cả một cuộc hội thảo kín do trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và chủ
trì bởi hai thành viên Bộ chính trị vào tháng hai năm 2009, một "Hội thảo
khoa học" phối hợp tổ chức bởi Liên minh các Hiệp hội Khoa học và Công
nghệ Việt Nam của chính phủ và Bộ Công Thương trong tháng Tư năm 2009, và một cuộc
tranh luận gay gắt về khai thác bauxite tại cuộc họp hai năm một lần của Quốc
hội vào tháng Năm và tháng Sáu 2009, [33]
Đến giữa năm 2009, mạng lưới chống bauxite của năm
trước đó đã phát triển thành một liên minh quốc gia bao gồm cả môi trường, người
dân địa phương, các nhà khoa học, các nhà kinh tế, cán bộ quân đội nghỉ hưu và
cựu chiến binh, cán bộ nhà nước đã về hưu, các nhà khoa học xã hội, khoa học
khác và trí thức, các thành viên các phương tiện truyền thông, và đại biểu Quốc
hội. Những nhà phê bình đều là tinh hoa chính thống. Họ được tham gia bởi các
bloggers, các nhà đối kháng chính trị và lãnh đạo tôn giáo đại diện của giáo
hội bị cấm là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, của các linh mục Dòng
Chúa Cứu Thế và có sự tham gia của các nhóm dân [oan] có tranh chấp đất đai với
chính quyền địa phương tại Hà Nội từ những năm trước.
Ngày 3 tháng Năm 2009, Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn, Tổng
Giám Mục Sài Gòn, đã đưa ra một Thư Mục Vụ lên án khai thác tài nguyên thiên
nhiên mà gây thiệt hại cho môi trường và kêu gọi người Công giáo phản đối kế
hoạch phát triển như thế [34]. Vào tháng Sáu, luật sư Cù Huy Hà Vũ đã đệ đơn
kiện Thủ tướng tại Tòa án Nhân dân Hà Nội. [35]. Khi Tòa án bác bỏ yêu cầu này
với lý do họ không có thẩm quyền trong vấn đề này, Cù Huy Hà Vũ đã nộp đơn
kháng cáo lên Tòa án Nhân dân Tối cao ngày 03 tháng 7. Việc đối đầu pháp lý
kiểu anh hùng rơm này cũng đã bị bác bỏ [36]
Cuộc đấu tranh chống dự án bauxite năm 2009 là một
thách thức mới cho Nhà nước. Lần đầu tiên năng lực của chính phủ về các dự án
phát triển quy mô lớn bị đặt vấn đề bởi một liên minh rộng rãi của giới tinh
hoa chính trong cả nước bao gồm cả các nhà môi trường, các nhà khoa học, các
nhà kinh tế, khoa học xã hội và quan chức đã về hưu [37]. Ngoài ra các nhà phê
bình trong nước còn tăng độ nhạy cảm chính trị khi cáo buộc rằng sự tham gia
của Trung quốc vào khai thác bauxite là một vấn đề an ninh quốc gia.
Tóm lại, tranh cải về dự án khai thác bauxite đại diện
cho một thách thức lớn đối với lý lẽ “hiệu năng” [tôi làm được việc] của sự
chính danh của nhà nước độc đảng của Việt Nam . Kết quả là, chính phủ đã buộc
phải thay đổi kế hoạch của mình để đếm xỉa đến những lo ngại về môi trường và
các tác động đối với dân tộc thiểu số. Chính phủ đồng ý cho phép Quốc hội, các
Bộ và chính quyền địa phương được tiến hành đánh giá thường xuyên dự án Bauxite
để xem nó đã được thực hiện như thế nào. Tuy nhiên, Thủ tướng và các quan chức
khác của Chính phủ khẳng định rằng việc khai thác bauxite là "một chủ
trương lớn của đảng và nhà nước" và vẫn sẽ tiến hành [38]. Vào tháng Năm,
trong một cử chỉ để làm kiểng, sáu công ty Trung Quốc bị phạt vì không có giấy
phép cho người lao động Trung Quốc làm việc tại các dự án Bauxite [39].
Tranh chấp Biển Đông. Không có chính sách đối ngoại nào đã làm dư luận
trong nước lớn lên mạnh mẽ như tranh chấp lãnh thổ của Việt Nam đối với
Trung Quốc trên Biển Đông. Các tranh chấp Biển Đông nổi lên vào năm 1992 ngay
sau khi quan hệ với Trung Quốc Việt Nam được bình thường hóa sau một thập kỷ
dài ghẻ lạnh vì cuộc xung đột Campuchia.
Tháng Hai năm
1992, Quốc hội Nhân dân Trung Quốc đã thông qua Luật về Lãnh hải và Vùng tiếp
giáp đã tuyên bố chủ quyền trên tất cả các đảo ở Biển Đông, bao gồm cả quần đảo
Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Luật pháp Trung Quốc giờ đây đã đặt nước này
trên con đường va chạm với Việt Nam
về chủ quyền ở Biển Đông. Va chạm này là sự xuất hiện của một loạt các sự cố
hàng hải trong năm 1990 kết tủa bởi những nỗ lực của Trung Quốc nhằm khai thác
dầu trong vùng biển thuộc Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hoặc EEZ. [40]
Mãi cho đến năm 2007, tuy nhiên, sự quyết đoán của
Trung Quốc ở Biển Đông đã trở thành một vấn đề trong nước. Vào cuối năm 2007,
Việt Nam đã chứng kiến lần đầu tiên các cuộc biểu tình thường xuyên của dân
chúng tại Hà Nội và sau đó là ở các trung tâm đô thị khác để phản đối các hành
động của Trung Quốc ở Biển Đông, như quấy rối ngư dân Việt Nam. Nói chung chế
độ cho thấy một mức độ khoan dung, cho phép người biểu tình để tỏ thái độ bên
ngoài Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội hoặc Tổng Lãnh sự quán Trung Quốc tại
thành phố Hồ Chí Minh, trước khi họ bị hộ tống ra khỏi đó bởi các quan chức
công an.
Từ năm 2007 đến nay, một số blogger đã dùng Internet
để chỉ trích không chỉ Trung Quốc mà cả chính phủ của họ vì đã không đứng lên
chống lại Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam. Trong thời gian này, khi
Trung Quốc quấy nhiễu ngư dân Việt Nam hoặc khi ngư dân Trung Quốc xâm nhập vào
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ), chính phủ phản ứng bằng cách đưa ra
các phản đối ngoại giao. Thỉnh thoảng Việt Nam triển khai cảnh sát Biển của
mình để truy đuổi ngư dân Trung Quốc ra khỏi vùng biển của Việt Nam và
"lên gân" đối với các tàu Hải cảnh của Trung Quốc vào hoạt động trong
vùng EEZ của Việt Nam.
Khủng hoảng giàn khoan HD 981. Không có sự cố nào nghiêm trọng hơn cuộc khủng
hoảng nổ ra vào đầu tháng Năm đến giữa tháng 7 năm 2014 khi Trung Quốc đưa giàn
khoan dầu mỏ khổng lồ Hải Dương 981 (HD 981) vào trong vùng EEZ của Việt Nam đi
kèm với một hạm đội tàu chiến, tàu Cảnh sát biển, tầu kéo và tàu đánh cá gồm
chung là hơn một trăm tầu vào ngày đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng. Trung Quốc
cũng đã cử máy bay quân sự qua bay khu vực.
Việt Nam phản ứng bằng cách gửi nhiều tàu Cảnh sát
Biển nhỏ hơn và tầu Kiểm ngư ra đối đầu với Trung Quốc và ra lệnh cho họ phải
ra khỏi vùng EEZ của Việt Nam. Trung Quốc phản ứng mạnh mẽ bằng cách đâm tàu vào
tàu thuyền Việt Nam và sử
dụng vòi rồng cực mạnh để phá nát các cột vô tuyến truyền tin trên tàu của Việt
Nam .
Tàu thực thi pháp luật hàng hải của Việt Nam hàng ngày tiếp tục các cuộc đối
đầu không cân xứng của mình, nhưng thêm một đòn mới là đưa các nhà báo nước
ngoài lên tàu của mình để quay phim và đăng tải sự cố trên biển này. Việt Nam đã
đạt được một cuộc chiến tuyên truyền toàn cầu chống Trung Quốc khi bộ phim được
phát sóng cho thấy các tàu lớn của Trung Quốc đã cố tình đâm tàu thuyền Việt
nhỏ hơn.
Cuộc khủng hoảng trên biển giữa Việt Nam và Trung
Quốc tiếp tục trong sáu tuần. Trong giai đoạn này Việt Nam đã thông
qua một tư thế phòng thủ bằng cách hàng ngày giữ tàu chiến của mình né xa khu
vực đối đầu. Việt Nam
cũng đã cố gắng kích hoạt trong vô vọng đường dây nóng với Trung Quốc. Hơn ba mươi
lần Việt Nam
đã liên lạc với TQ trong tháng Năm nhưng chưa bao giờ nhận được trả lời kể cả
lần yêu cầu Trung Quốc gửi một phái viên đặc biệt qua VN.
Gần một tuần sau khi Trung Quốc triển khai HD 981,
Trung ương ĐCSVN triệu tập Hội nghị lần thứ Chín của mình với một chương trình
nghị sự dài từ 08 đến ngày 14 tháng 5. Mặc dù chương trình nghị sự bao gồm một
số vấn đề trong nước nhưng cuộc họp đã bị lu mờ bởi khủng hoảng hàng hải ngày
càng lớn [41]. Một cuộc tranh luận nóng đã nổ ra về việc Việt Nam cần đáp ứng các thách thức của Trung Quốc về
chủ quyền của Việt Nam .
Tuy nhiên, các thông cáo chính thức ban hành sau khi hội nghị trung ương chốt
giải pháp là giám sát chặt chẽ việc bế tắc hàng hải và kêu gọi một giải pháp
hòa bình cho tranh chấp. Điều này đã cho ấn tượng rằng "mọi chuyện vẫn
bình thường" và không đưa ra gợi ý nào về những bất đồng trong nội bộ đảng
về chính sách Biển Đông.
Vào ngày 11, trong khi Ủy ban Trung ương đang họp, các
cuộc biểu tình hòa bình chống Trung Quốc đã diễn ra tại Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh và các khu vực đô thị khác là những nơi mà truyền hình trong nước phủ
sóng các cuộc đối đầu. Nghiêm trọng hơn, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc
của người lao động Việt Nam ở ba khu công nghiệp ở các tỉnh Hà Tĩnh, Bình
Dương, Đồng Nai và đã biến thành bạo lực vào ngày 13-14. Gần bốn trăm doanh
nghiệp của người Trung Quốc (và của các người nước ngoài khác làm chủ) đã bị hư
hỏng nặng hoặc bị đốt cháy thành bình địa. Trung Quốc đáp lại bằng cách di tản
hàng ngàn công nhân của mình (ra khỏi VN), yêu cầu bồi thường và áp đặt lệnh
trừng phạt kinh tế. Du lịch Trung Quốc đến Việt Nam giảm mạnh.
Sau Đại Hội lần thứ Chín, và khi đối mặt với bức tường
ngoại giao Trung Quốc, áp lực tiếp tục nổi lên bên trong đảng và ngoài xã hội
là Việt Nam phải có hành động pháp lý chống lại Trung Quốc. Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng đã trở thành người ủng hộ công khai nhất cho hành động này, nhưng nói
rằng thời gian là rất quan trọng. Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã lên
tiếng tại cuộc Đối thoại Shangri-La có hành động pháp lý là "giải pháp
cuối cùng". Vào ngày 18 tháng 6 Trung Quốc đã phái Ủy Dương Khiết Trì đến
Hà Nội để bực dọc tham vấn với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình
Minh.
Vào đầu tháng Bảy, Bộ Chính trị ĐCSVN đã bỏ phiếu
triệu tập một cuộc họp đặc biệt của Ủy ban Trung ương để thảo luận về cuộc
khủng hoảng HD 981 và xem xét hành động pháp lý quốc tế chống lại Trung Quốc
và, theo báo cáo, hội nghị đã xem xét bỏ chính sách quốc phòng "ba
không." Ngày 15, Trung Quốc thông báo rằng họ đã rút giàn khoan HD 981 ra
khỏi vùng biển Việt Nam .
Việc này đã làm tan đi cơn gió cho cánh buồm con tầu của những người kêu gọi
một cuộc họp Ủy ban Trung ương đặc biệt. Tuy nhiên, vào ngày 28 tháng Bảy, sáu
mươi mốt nhân vật hàng đầu của Việt Nam đã ký một bức thư ngỏ chỉ trích chính
phủ về cách xử lý mối quan hệ với Bắc Kinh và kêu gọi hành động pháp lý và làm
giảm đi sự phụ thuộc của Việt Nam vào Trung Quốc bằng cách rời quỹ đạo của
Trung Quốc (thoát Trung).
Hành động thu hồi HD 981 một tháng sớm hơn so với công
bố của Trung Quốc đã làm dịu cuộc khủng hoảng và dẫn đến sự trở lại của ngoại
giao và những nỗ lực khó khăn để khôi phục lòng tin chính trị [42].
Cuộc khủng hoảng HD 981 năm 2014 đã chứng minh tính
hiệu quả của chính sách vừa đấu tranh và vừa hợp tác với Trung Quốc của Việt
Nam. Cuộc đối đầu hàng ngày giữa các tàu thực thi pháp luật hàng hải của Trung
Quốc và Việt đã chứng minh rằng Việt Nam có khả năng "đấu tranh
chống lại" Trung Quốc, chứng tỏ quyết tâm trong việc bảo vệ lợi ích quốc
gia của mình. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đã quan tâm ngăn chặn bất kỳ sự cố hàng
hải nào leo thang dẫn một cuộc đụng độ vũ trang với lực lượng quân sự trên cơ
của Trung Quốc và / hay kích động Trung Quốc đánh chiếm một thực thể đảo mà
Việt Nam hiện nay đang chiếm đóng. Các hành vi phản ứng "vừa hợp tác và
vừa đấu tranh" của chính phủ được hiệu chuẩn cẩn thận được thiết kế để
nhấn mạnh chủ quyền của Việt Nam
mà không làm kích động Trung Quốc.
Giải pháp cho cuộc khủng hoảng HD 981 đã không làm
được gì nhiều để làm giảm nhẹ tình cảm chống Trung Quốc đang lan rộng trong
công chúng Việt. Đảng-Nhà nước Việt đáp lại dư luận bằng cách chủ động hơn
trong việc cho phép Bộ Ngoại giao đưa ra các phản đối đối với các hành động của
Trung Quốc được coi là vi phạm chủ quyền, lãnh thổ lãnh hải của Việt Nam hay
[gây hại đến] hòa bình và ổn định ở Biển Đông. Sách giáo khoa tiếng Việt đang
dần được xem lại để lấy đi các tài liệu lịch sử chính thức của quan hệ
Trung-Việt. Các phương tiện truyền thông Việt Nam đã được trao nhiều không gian
hơn để đăng tải những thông tin phê phán Trung Quốc.
Phần 4: Đối xử công bằng với các cường
quốc lớn
Chính sách "đa phương và đa dạng hóa" quan
hệ đối ngoại của Việt Nam
là chiến lược đàm phán các thỏa thuận hợp tác chiến lược với một loạt các quốc
gia. Từ năm 2001 đến 2016 Việt Nam đã thành công đạt thỏa thuận “đối tác chiến
lược” với mười sáu nước và thỏa thuận quan hệ “đối tác toàn diện” với mười nước
khác, trong đó có Australia và Hoa Kỳ. Các thỏa thuận này có phạm vi rộng rãi
và bao gồm các điều khoản khác cho hợp tác trong các vấn đề ngoại giao, quốc
phòng và an ninh. Các thỏa thuận này cũng bao gồm một cơ chế chung để quản lý
các mối quan hệ song phương và họ thường kèm theo Kế hoạch hành động nhiều năm.
Việt Nam tìm cách tránh bị kẹt ở giữa sự đối đầu chiến
lược giữa một bên là Trung Quốc đang lên và một bên là Hoa Kỳ bằng cách theo
đuổi một sự cân bằng đa cực trong số năm cường quốc - Nga, Ấn Độ, Nhật Bản,
Trung Quốc và Hoa Kỳ. Mục đích của quan hệ đối tác chiến lược là cung cấp cho
mỗi nước một phần bằng nhau ở Việt Nam để ngăn việc Việt Nam bị kéo vào quỹ đạo
của một đối thủ và để Việt Nam có thể duy trì quyền tự trị chiến lược của mình.
Các phần dưới đây sẽ lướt nhanh xem lại quan hệ đối tác chiến lược của Việt Nam
với các nước lớn.
Nga. Việt Nam đàm phán Hiệp định đối tác chiến
lược đầu tiên với Liên Bang Nga vào tháng 3 năm 2001 trong chuyến thăm của Tổng
thống Vladimir Putin tại Ha Nội. [43] thỏa thuận hợp tác rộng rãi này gồm tám
lĩnh vực chủ yếu: chính trị-ngoại giao, thiết bị quân sự và công nghệ,
hợp tác dầu khí, hợp tác năng lượng thủy điện và điện hạt nhân, thương mại và
đầu tư, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và du lịch. Vào
tháng Bảy năm 2012, Việt Nam
và Nga tăng quan hệ đối tác chiến lược lên thành quan hệ đối tác chiến lược
toàn diện nhân chuyến thăm chính thức Moscow
của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang [44].
Bề rộng của quan hệ Việt Nam-Nga đã được minh họa
trong tháng 4 năm 2015 khi Việt Nam và Nga đã ký tám thỏa thuận hợp tác trong
lĩnh vực năng lượng (dầu mỏ, khí đốt, và hạt nhân), đầu tư, ngân hàng (sử dụng
đồng tiền quốc gia để thúc đẩy thương mại song phương), chăm sóc sức khỏe, vận
chuyển (hàng không, đường sắt) và nông nghiệp [45].
Vũ khí Nga bán cho Việt Nam là phần lớn nhất và quan trọng
nhất của đối tác chiến lược, tiếp theo là năng lượng (dầu mỏ, khí đốt, thủy
điện và điện hạt nhân). Liên bang Nga là nhà cung cấp lớn nhất của Việt Nam về thiết bị
quân sự và công nghệ. Sự trợ giúp này cho phép Việt Nam
hiện đại hóa các lực lượng vũ trang của mình và tăng cường năng lực của mình để
bảo vệ chủ quyền của Việt Nam
[46]
Nhật Bản. Tháng Mười năm 2006, hai Thủ tướng
Shinzo Abe và Nguyễn Tấn Dũng đã đưa ra một tuyên bố chung hướng tới một quan
hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á [47]. Một năm sau đó
trong chuyến thăm chính thức của Chủ Tịch Nước Việt Nam, Nhật Bản và Việt Nam
đã đưa ra một Tuyên bố chung gồm một Chương trình bốn mươi bốn điểm “Hướng tới
quan hệ đối tác chiến lược (Strategic Patnership)”. Chương trình này được chia
thành bảy lĩnh vực nội dung: giao lưu, hợp tác trong đối thoại chính
sách, an ninh, quốc phòng; đối tác kinh tế toàn diện; hoàn thiện hệ thống pháp
luật và cải cách hành chính; khoa học và Công nghệ; biến đổi khí hậu, môi
trường, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ; hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân
hai nước; và hợp tác trong các hoạt động quốc tế [48].
Tháng Ba năm 2014, Việt Nam và Nhật nâng quan hệ song
phương lên tầm “đối tác chiến lược mở rộng” (Extensive Strategic Patnership).
Ấn
Độ. Vào tháng Bảy năm 2007, Ấn Độ và Việt Nam đã thông qua một Tuyên bố
chung 33 điểm đối tác chiến lược gồm năm lĩnh vực hợp tác chính: chính trị,
quốc phòng, an ninh hợp tác; hợp tác kinh tế gần gũi hơnvà tham gia thương mại;
hợp tác khoa học và công nghệ, hợp tác văn hóa và kỹ thuật và hợp tác đa phương
và khu vực [49].
Đối
tác chiến lược Việt Nam-Ấn Độ tập trung vào sáu lĩnh vực hợp tác: (1) đối thoại
chiến lược cấp Thứ trưởng; (2) cung cấp quốc phòng, dự án chung, hợp tác đào
tạo và trao đổi thông tin tình báo; (3) thăm viếng giao lưu giữa các cơ sở quốc
phòng và an ninh của họ; (4) xây dựng năng lực, hỗ trợ kỹ thuật và chia sẻ
thông tin trong đó đặc biệt chú ý đến an ninh của các tuyến đường biển, chống
cướp biển, ngăn ngừa ô nhiễm và tìm kiếm cứu nạn; (5) chống khủng bố và an ninh
mạng; và (6) an ninh phi truyền thống [50].
Năm 2016, trong chuyến thăm chính thức của Thủ tướng
Modi tại Hà Nội, Việt Nam
và Ấn Độ tăng quan hệ song phương lên tầm đối tác chiến lược toàn diện.
Trung Quốc. Tháng Sáu năm 2008, mười bảy năm sau
khi bình thường hóa quan hệ, các nhà lãnh đạo của Việt Nam và Trung Quốc đã
đồng ý nâng cao quan hệ song phương lên tầm “đối tác chiến lược”. Một năm sau
lại được nâng cấp thành “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược” [51]. Đến năm 2013
Việt Nam và Trung Quốc tăng quan hệ song phương lên “quan hệ đối tác hợp tác
chiến lược toàn diện”, chỉ định cao nhất trong số tất cả các đối tác chiến lược
của Việt Nam.
Là đối tác chiến lược, Trung Quốc và Việt Nam đã phát
triển một mạng lưới dày đặc của đảng, nhà nước, quốc phòng và các cơ chế đa
phương để quản lý các mối quan hệ song phương trong đó có một Ban chỉ đạo ở mức
Phó Thủ tướng. Có một thời gian gián đoạn trong quan hệ song phương trong thời
gian cuộc khủng hoảng HD 981. Sau khi căng thẳng được giải tỏa hai bên tiếp tục
trao đổi chính trị, ngoại giao và quân sự cấp cao. Ban Chỉ Đạo Trung Quốc-Việt Nam , cơ chế phối
hợp cấp độ cao nhất, giám sát các mối quan hệ song phương, đã tiếp tục gặp gỡ.
Hoa Kỳ. Giữa năm 2010 và 2013 các quan chức Việt
Nam và Mỹ nghiền ngẫm ý tưởng một thỏa thuận về quan hệ đối tác chiến lược.
Cuối cùng cả hai bên lùi lại từ cam kết này và quyết định thay vào đó thông qua
một Tuyên bố chung về “quan hệ đối tác toàn diện” [Comprehensive Partnership]
trong chuyến thăm cấp nhà nước của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tới Washington vào tháng Bảy
2013 [52].
Quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam-Mỹ về cơ bản hệ
thống hóa thành chín khu vực chính về hợp tác lâu dài: chính trị và
quan hệ ngoại giao, thương mại và quan hệ kinh tế, khoa học và công nghệ, giáo
dục và đào tạo, môi trường và sức khỏe, vấn đề di sản chiến tranh, quốc phòng,
an ninh, bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền và văn hóa, thể thao, và du lịch [53].
Tuyên bố chung này hợp nhất các cơ chế hợp tác song
phương hiện có như Hội đồng Hiệp định Thương mại và Đầu tư khung; Ủy ban hỗn
hợp về hợp tác khoa học và công nghệ; Đối thoại Chính sách Quốc phòng; và chính
trị, an ninh, quốc phòng và đối thoại, cũng như một cơ chế đối thoại chính trị
và ngoại giao mới giữa Ngoại trưởng Hoa Kỳ và Bộ trưởng Ngoại giao của Việt
Nam. Tuyên bố này không có kế hoạch hành động nhiều năm nào kèm theo.
Sau đó, Việt Nam và Hoa Kỳ đã thông qua ba văn kiện bổ
sung thỏa thuận “đối tác toàn diện” của họ: Tuyên bố về Tầm nhìn Hợp tác Quốc
phòng (ngày 01 tháng 6 năm 2015) giữa các bộ trưởng quốc phòng của họ [54],
Tuyên Bố về Tầm Nhìn Chung giữa Tổng thống Barack Obama và Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng (tháng 7 năm 2015), và Tuyên bố Chung (ngày 23 tháng 5 năm 2016) giữa
Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Tổng thống Obama. Trong chuyến thăm của ông
Obama tới Việt Nam tháng năm 2016 ông tuyên bố dỡ bỏ tất cả các hạn chế về việc
bán vũ khí cho Việt Nam.
Khi thực hiện như là một tổng thể, mạng lưới quan hệ
đối tác chiến lược và toàn diện của Việt Nam đã giúp Việt Nam né xa sự cạnh
tranh Trung-Mỹ và giúp Việt Nam các phương tiện cơ động giữa các cường quốc chủ
yếu để bảo vệ nền độc lập và tự chủ của mình
Phần 5: Chủ
động hội nhập quốc tế
Chính sách đối ngoại thúc đẩy hội nhập quốc tế của
Việt Nam
là lâu dài. Ví dụ, Việt Nam gia nhập APEC vào năm 1998, Tổ chức Thương mại Thế
giới vào năm 2007 và được bầu làm thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-09. Năm 2011, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
Mười Một ủng hộ Việt Nam
"chủ động, hội nhập quốc tế năng động”.
Ngày 10 tháng 4 năm 2013, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản
ban hành Nghị quyết số 22-NQ / TW về hội nhập quốc tế. Nghị quyết tuyên bố rằng
"chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là một định hướng chiến lược lớn
của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa Việt Nam "
[55]. Nghị quyết 22 nhấn mạnh sự cần thiết cho Việt Nam :
Đưa ra các cam kết quốc tế song song với việc chủ động
và tích cực tham gia trong việc phát triển và sử dụng các quy tắc và thông lệ
quốc tế và tham gia vào các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ
động đề xuất các sáng kiến và cơ chế hợp tác theo nguyên tắc cùng có lợi;
củng cố và nâng cao vị thế của nước ta trong các cộng đồng khu vực và quốc tế,
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên Thế Giới [56].
Sau khi Nghị quyết số 22 được ban hành Chính Phủ đã
thông qua một kế hoạch hành động và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số
15/CT-TTg. Chỉ thị này dẫn đến việc thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về Hội nhập
quốc tế đứng đầu là Thủ tướng. Hai Ủy ban chỉ đạo liên ngành lớn đã được thiết
lập, một cho hội nhập quốc tế về chính trị, an ninh, quốc phòng, một có trách
nhiệm đối về hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực văn hóa và xã hội, khoa học và
công nghệ, giáo dục và đào tạo. Việt Nam là một thành viên nhiệt tình trong các
cuộc đàm phán về Hiệp ước Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) cũng trong Hiệp
Định Đối Tác Kinh tế Toàn diện (RCEP) với các nước ASEAN. Việt Nam gần đây đã gia nhập Liên minh Âu Á bao gồm Armenia , Belarus ,
Kazakhstan
và Nga.
Năm 2015, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã ban hành một Sách xanh Ngoại giao để xem
xét những nỗ lực chủ động hội nhập quốc tế trong năm qua của Việt Nam . Là một
thành viên của Liên Hiệp Quốc, Việt Nam được bầu vào Hội đồng Thống đốc của Cơ
quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (2013-15), Hội đồng Nhân quyền (2014-16), Ban
điều hành của Tổ chức Liên Hợp Quốc cho Giáo dục, Khoa học và văn hóa hay
UNESCO (2015-19), và Hội đồng Kinh tế và Xã hội của Liên hợp quốc (2016-18).
Việt Nam
cũng đã công bố rằng họ sẽ là một ứng cử viên cho thành viên không thường trực
của Hội đồng Bảo An nhiệm kỳ 2020-21.
Các trung tâm của hội nhập khu vực của Việt Nam là các nước
ASEAN và các tổ chức đa phương mà ASEAN làm trung tâm. Việt Nam trở thành
thành viên của Diễn đàn Khu vực ASEAN năm 1994 và là thành viên đầy đủ của
ASEAN vào năm sau. Việt Nam đã tích cực tham gia Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng
ASEAN (ADMM), các Diễn đàn Hàng hải ASEAN (AMF), AMF mở rộng, Hội nghị Á-Âu
(ASEM), và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á. Năm 2010 Việt Nam đã tổ chức cuộc họp
khai mạc của Hội nghị ADMM-Plus. Việt Nam là nhà điều phối quan hệ
ASEAN-Liên minh Châu Âu cho 2012-15 và hiện là điều phối viên quan hệ ASEAN-Ấn
Độ (2015-18).
Ở cấp độ song phương Việt Nam
đã ký kết thỏa thuận hợp tác chiến lược với năm trong mười thành viên của
ASEAN: Thái Lan , Indonesia ,
Singapore , Philippines và Malaysia . Sau cuộc bầu cử các lãnh
đạo nhà nước mới vào tháng 5 năm 2016, Chủ tịch nước Trần Đại Quang thăm Brunei và Singapore .
Phần 6: Gợi ý cho Hoa Kỳ
Từ năm 1995 Việt Nam
đã nổi lên như là một thành viên chủ chốt của ASEAN và cả Việt Nam và
Hoa Kỳ đều đã chia sẻ lợi ích trong việc tăng cường ASEAN là một tổ chức khu
vực. Tương tự như vậy, cả Việt Nam và Hoa Kỳ đều chia sẻ mối quan tâm về an
ninh hàng hải ở Biển Đông, bao gồm cả quyền tự do hàng hải và hàng không. Cả
hai cùng chia sẻ một chính sách mà tranh chấp lãnh thổ nên được giải quyết một
cách hòa bình mà không có sự đe dọa sử dụng vũ lực trên cơ sở luật pháp quốc
tế, bao gồm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển.
Việt Nam
và Hoa Kỳ chia sẻ quan điểm tương tự về các vấn đề quốc tế như không phổ biến
hạt nhân, chống chủ nghĩa cực đoan bạo lực, và giảm tác động của thay đổi khí
hậu.
Cả Việt Nam
và Hoa Kỳ chia sẻ lợi ích chung trong sự ổn định và phát triển kinh tế của Việt
Nam .
Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam
và Việt Nam
hưởng thặng dư thương mại khổng lồ của Hoa Kỳ 30,9 tỷ $ (so với thâm hụt thương
mại với Trung Quốc là 32,3 tỷ $). Việt Nam là một thành viên nhiệt tình
trong đàm phán TPP, mục tiêu chính của chính sách tái cân bằng châu Á của Tổng
thống Obama....
Mặc dù có nhiều lãnh vực có lợi ích chung, lợi ích cho
Hoa Kỳ và cho Việt Nam
lại không trùng khớp [57]. Ví dụ, Việt Nam muốn Hoa Kỳ chính thức chỉ định Việt
Nam là một nền kinh tế thị trường để họ có thể tiếp cận được nhiều hơn với thị
trường Mỹ. Hoa Kỳ đã không làm như vậy bởi vì họ quan ngại về vai trò đặc quyền
của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của
Việt Nam. Mỹ coi việc thúc đẩy giá trị dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo
như những yếu tố củng cố sự ổn định chính trị và phát triển. Việt Nam ,
tuy nhiên, lại có những nghi ngờ rằng Hoa Kỳ đang tìm cách lật đổ hệ thống độc
đảng của họ thông qua "diễn biến hòa bình."
Ngay cả trong các lĩnh vực quốc phòng và an ninh, nơi
mà Hoa Kỳ và các lợi ích chiến lược của Việt Nam ngày càng hội tụ trong những
năm gần đây, mối quan tâm của họ cũng không giống nhau. Việt Nam tìm cách
tận dụng quan hệ đối tác chiến lược với các nước lớn để thúc đẩy chính sách đối
ngoại độc lập và tự chủ. Việt Nam
nói chung đã hỗ trợ chính sách tái cân bằng hướng về châu Á-Thái Bình Dương của
Tổng thống Obama. Quan chức cấp cao Việt chào đón sự hiện diện của Hải quân Hoa
Kỳ ở Biển Đông miễn là nó đóng góp, theo quan điểm của Hà Nội, cho hòa bình và
an ninh khu vực. Tuy nhiên, chính sách quốc phòng của Việt Nam "ba
không" lại hạn chế mức độ mà họ sẽ hợp tác với Hoa Kỳ để hạn chế Trung
Quốc.
Việt Nam
và Hoa Kỳ đều cảnh giác với sự hợp tác Trung-Nga ở Châu Á-Thái Bình Dương. Việt
Nam , tuy nhiên, có quan hệ
tốt với Moscow trong khi Washington thì không. Tàu hải quân Nga đã
được tiếp cận đặc biệt quân cảng tại Vịnh Cam Ranh, trong khi các cường quốc
lớn khác chỉ được phép cập vào cảng quốc tế Cam Ranh và hiện đang bị giới hạn
một tầu chỉ được thăm cảng hải quân một năm một lần. Năm 2015 chính sách quốc
phòng "ba không" của Việt Nam đã bị đặt dưới sự căng thẳng khi máy
bay tiếp nhiên liệu quân sự của Nga tại vịnh Cam Ranh tiếp dầu cho các máy bay
ném bom “Bear” [của Nga] khi các máy bay này tiến hành các chuyến bay khiêu
khích gần cơ sở quân sự của Hoa Kỳ trên Guam [58].
Quan hệ đối tác toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
cung cấp một nền tảng vững chắc cho sự phát triển tương lai cho quan hệ song
phương với chính phủ Hoa Kỳ tiếp theo. Điều này đã được minh họa bằng chuyến
thăm của Đinh Thế Huynh đến Washington từ ngày 24 đến ngày 30 Tháng 10 năm
2016, theo lời mời của Bộ trưởng Ngoại giao John Kerry [59]. Huynh là ủy viên
thường trực của Ban Bí thư của đảng cộng sản Trung ương và là một ứng cử viên
tiềm năng để trở thành Tổng Bí thư kế tiếp.
Huynh
kêu gọi Hoa Kỳ "thúc đẩy hợp tác toàn diện để phát triển bằng cách
tăng những lần thăm viếng ở tất cả các cấp, mở rộng các cơ chế tham vấn về các
vấn đề cùng quan tâm và thúc đẩy hiệu quả các cơ chế hợp tác hiện có"
[60]. Huynh đặc biệt kêu gọi tăng cường " hợp tác kinh tế, thương mại và
đầu tư "và tăng cường hợp tác " khoa học, giáo dục, y tế, môi trường,
kết nối cơ sở hạ tầng, năng lượng tái tạo, và chống biến đổi khí hậu... liên
kết quốc phòng-an ninh... trao đổi dân với dân, trong khi ưu tiên giải quyết
hậu quả chiến tranh và viện trợ nhân đạo" [61]
Huynh lưu ý rằng Quốc hội Việt Nam đang chuẩn
bị phê chuẩn Hiệp định TPP và kêu gọi Hoa Kỳ đẩy nhanh việc thông qua nó. Huynh
cũng bày tỏ hy vọng rằng Hoa Kỳ "sẽ sớm công nhận nền kinh tế Việt Nam là
nền kinh tế thị trường, mở cửa thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam
nhiều hơn, và giảm các rào cản thương mại" [62]. Huỳnh khẳng định Việt Nam
sẵn sàng " làm việc với nước Mỹ và các nước có liên quan để thúc đẩy vai
trò trung tâm của ASEAN và xây dựng các cơ chế do ASEAN lãnh đạo để tạo thành
một cấu trúc khu vực trong thế kỷ 21 " [63]. Đáng chú ý Huynh hoan nghênh
"vai trò tích cực của các nước trong và ngoài khu vực, trong đó có Mỹ,
trong việc giữ hòa bình và ổn định ở biển Đông " và kêu gọi Mỹ tiếp tục
hợp tác với các nước trong vùng Châu Á-Thái Bình Dương [64]. Cuối cùng, Huynh
mời Tổng thống Mỹ mới tới thăm Việt Nam vào năm 2017 khi Việt Nam đăng cai tổ
chức Hội nghị thượng đỉnh APEC.
Tóm lại, Việt Nam và Hoa Kỳ chia sẻ một sự hội tụ
về các lợi ích chiến lược nhưng những lợi ích lại không trùng khớp. Trong khi
chính sách của Việt Nam đối với Hoa Kỳ có vẻ rõ ràng là chờ đến tổng thống Hoa
Kỳ tiếp theo để hiểu rõ liệu sẽ có tính liên tục hay một sự thay đổi trong
chính sách tái cân bằng khu vực châu Á-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ.
Carlyle A. Thayer (Bích Đăng chuyển ngữ)/Dân luận/TTHN
(Bài đã dài, Phần chú thích dài, không tiện
đăng. Mong bạn đọc vừa lòng)
------------
VN(cs) chỉ có chính sách "Đười ươi giữ ống" thôi!
Trả lờiXóaNoi ,kien nghi voi lanh dao VN Lam chi cho mat thoi gian phi cong vo ich ,nuoc chay dau vit .
Trả lờiXóaChẳng hiểu ông này lấy bằng tiến sĩ ở đâu mà viết lung tung trật lất hết cả. Cái chính là ông không hiểu tình hình Việt nam, và càng không hiểu bản chất của giới cầm quyền ở Việt nam!
Trả lờiXóaÔng này viết có chủ đích hay ý đồ chính trị của ông
Xóanhằm kêu gọi VN.hợp tác gấp với Mỹ nhiều hơn nữa thì
Mỹ mới tin tưởng...thành tâm của CsVN.Chính điều đó
là điểm yếu nhất của Carl Thayer !