(tiếp theo)
... Nguyên tắc
phân phối của Thụy Điển là: Phải vừa có lợi cho việc huy động, phát huy đầy đủ
tính tích cực về mọi mặt, và nâng cao năng suất lao động, lại vừa không để xuất
hiện chênh lệch phân phối quá lớn. Biện pháp chủ yếu là: Trong lần phân phối
đầu tiên phải kiên trì nguyên tắc ưu tiên hiệu suất, nghĩa là người làm nhiều,
cống hiến nhiều thì phải được phân phối nhiều; ngược lại thì chỉ được phân phối
ít. Nhưng khi tái phân phối thì phải có sự điều tiết hợp lý, sao cho mức hơn
kém trong phân phối cuối cùng không quá lớn.
Khái quát
vài nét về “chủ nghĩa xã hội dân chủ” Thụy Điển
Dưới ảnh hưởng tuyên truyền của Liên Xô, lâu nay chúng
ta có thành kiến rất sâu sắc về phong trào chủ nghĩa xã hội dân chủ Tây Âu.
Thực ra, cho tới ngày Liên Xô biến mất, người Liên Xô chưa bao giờ giới thiệu
cho chúng ta biết một cách khách quan, trung thực về tình hình thực sự của
phong trào xã hội dân chủ Tây Âu (kể cả mối quan hệ giữa các đảng cộng sản với
các đảng xã hội dân chủ), không phải là “phủ định nhiều, khẳng định ít”, mà là
phủ định toàn bộ. Trước hết, tôi muốn nói một điều: thật ra phong trào xã hội
dân chủ Tây Âu đã phức tạp lại đa dạng, tình hình các nước không hoàn toàn
giống nhau. Thụy Điển không ở vào vùng đất “trái tim” của thế giới tư bản, mà
chỉ là “tứ chi” thôi (“trái tim” và “tứ chi” là cách nói của Mác), cách khá xa
vùng trung tâm giành giật của các thế lực tư bản cường quyền, do đó cuộc cải
cách xã hội của Thụy Điển có thể tiến hành tương đối tự chủ mà không, hoặc ít
chịu sự can thiệp và ảnh hưởng của các thế lực ngoại quốc.
Ở đây cần đặc biệt chỉ ra một điểm: các đảng XHDC,
đảng xã hội, đảng công nhân thuộc “Quốc tế xã hội” thành lập năm 1923 ở châu Âu
có cách giải thích về “chủ nghiã xã hội dân chủ”, trên nguyên tắc và trên nhiều
mặt, khác với cách giải thích của chủ nghĩa Mác; nhất là chủ trương “đa nguyên
hoá tư tưởng”. Đảng XHDC Thụy Điển tuy cũng thừa nhận đa nguyên hoá tư tưởng,
nhưng họ vẫn kiên trì lấy học thuyết Mác Ăng-ghen làm tư tưởng chỉ đạo chính
của mình. Đây là một đặc điểm và ưu thế của họ.
Tại đây, tôi chỉ xin căn cứ vào Báo cáo Khảo sát, chia
nó ra thành đề mục để trình bày, tức dùng phương pháp “chỉ thuật lại mà không
viết thêm” (thuật nhi bất tác) để giới thiệu về tình hình xã hội XHCN dân chủ ở
Thụy Điển mà mọi người rất muốn tìm hiểu. Tôi xin phép khuyên bạn đọc chịu khó
đọc hết phần sau, chớ có bỏ qua một dịp tìm hiểu về chủ nghĩa xã hội của Thụy
Điển.
Về vấn đề
tính chất của đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển và của xã hội Thụy Điển
Báo cáo khảo sát viết: “Lâu nay, chúng ta [tức
ĐCSTQ] luôn cho rằng đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển là một đảng xét lại, xã hội
Thụy Điển là một xã hội tư bản như các nước xã hội phương Tây khác. Do đó, trong
quá trình khảo sát, chúng tôi đã cực kỳ thẳng thắn hỏi các bạn Thụy Điển: rốt
cuộc đảng và xã hội của họ có tính chất như thế nào? Họ trả lời rõ ràng: cho
tới nay, họ vẫn tự cho rằng đảng XHDC Thụy Điển là một chính đảng xã hội
chủ nghĩa, xã hội Thụy Điển là một xã hội xã hội chủ nghĩa. Lý do chủ yếu
là: xét về lịch sử đảng XHDC Thụy Điển, năm 1889, khi thành lập đảng, họ không
có cương lĩnh và điều lệ đảng của riêng mình, mà sử dụng nguyên xi cương lĩnh
và điều lệ của đảng XHDC Đức hồi đó, do Ăng-ghen sáng lập. Khi chúng tôi đến
thăm Thụy Điển, tuy họ đang chuẩn bị sửa đổi lần thứ 7 cương lĩnh của đảng,
nhưng các tài liệu tuyên truyền phát đi vẫn ghi rõ: cơ sở lý luận của đảng XHDC
Thụy Điển là đa nguyên, song chủ yếu là chủ nghĩa Mác Ăng-ghen; cơ sở giai cấp
rộng rãi, nhưng chủ yếu là giai cấp công nhân. Chỉ có điều là ghi rõ: giai cấp
công nhân không những chỉ bao gồm công nhân cổ xanh mà còn gồm cả công nhân cổ
trắng…
Nhân vấn đề này, họ đặc biệt mời chúng tôi tới thăm
Nhà Trưng bày lịch sử đảng XHDC Thụy Điển. Nhìn thứ tự các bức ảnh được treo ở
đây, có thể thấy rõ: vị trí thứ nhất là Các Mác, thứ hai là Ăng-ghen, thứ ba là
Lát-xan,[7] thứ tư là Bran-hân, nhà lãnh đạo đầu tiên của đảng XHDC Thụy Điển …
Khi trao đổi ý kiến với một số nhà nghiên cứu lý luận của đảng XHDC Thụy Điển,
họ đặc biệt nhấn mạnh: chủ nghĩa xã hội mà họ nói là có điều kiện, tức là trước
đó phải thêm từ “dân chủ”, nói hoàn chỉnh phải là xã hội “chủ nghĩa xã hội dân
chủ“. Nếu không thêm từ “dân chủ”, thì họ thà để người ta nói xã hội của họ là
xã hội tư bản, còn hơn là để nói là xã hội XHCN. Bởi lẽ, loại xã hội XHCN ấy
đại biểu cho xã hội XHCN kiểu Liên Xô, không có sức thu hút quần chúng, nghĩa
là không nhận được phiếu bầu của quần chúng, cũng tức là không thể nắm chính
quyền và thực thi các chính sách XHCN.
Về tính chất
nền kinh tế Thụy Điển
Báo cáo Khảo sát viết: “Theo cách nói của các bạn
Thụy Điển, tính chất của kinh tế Thụy Điển vừa không hoàn toàn là kinh tế tư
bản, vừa cũng không phải hoàn toàn là kinh tế XHCN, mà là một loại kinh tế hỗn
hợp.[8] Kinh tế hỗn hợp nghĩa là:
-
Về chế độ sở hữu thì thực hành pha trộn chế độ sở hữu công cộng và chế độ tư
hữu;
-
Về chế độ phân phối thì thực hành phân phối theo lao động kết hợp với phân phối
theo vốn (tư bản);
-
Về phương thức vận hành kinh tế thì thực hành nhà nước điều hành vĩ mô kết hợp
với kinh tế thị trường. Trong đó, cốt lõi nhất là sự hỗn hợp về chế độ sở hữu,
vì chỉ có làm được như thế thì mới có thể thực hiện được sự hỗn hợp về chế độ
phân phối và về phương thức vận hành kinh tế. Tại sao chủ nghĩa xã hội phải
thực hành kinh tế hỗn hợp? Về vấn đề này, các bạn Thụy Điển đã dùng kinh nghiệm
tự thân của đảng mình để giới thiệu cho chúng tôi biết một bài học lịch sử rất
sâu sắc của họ.
“Theo giới thiệu, khi đảng XHDC Thụy Điển thành lập
năm 1889, lúc đó Thụy Điển hãy còn là một trong những nước lạc hậu nhất châu
Âu, thậm chí dân chúng còn chưa có quyền tối thiểu là quyền bầu cử phổ thông.
Vì sức sản xuất còn kém và trình độ của đảng còn thấp, nên khi đảng thành lập,
họ không đưa ra được cương lĩnh của đảng, đành phải sử dụng nguyên xi cương
lĩnh của đảng XHDC Đức hồi đó, do Ăng-ghen lãnh đạo soạn thảo. Cương lĩnh này
quy định rõ ràng: về chính trị, phải thông qua bầu cử dân chủ để quá độ hoà
bình giành lấy chính quyền; về kinh tế, phải thực hiện chế độ sở hữu công cộng,
phân phối theo lao động và quản lý có kế hoạch. Sau hơn 30 năm phấn đấu, về
cách đề xuất phương thức mục tiêu đấu tranh chính trị tuy có mấy lần thay đổi,
như ban đầu đề khẩu hiệu phấn đấu là “đấu tranh giành quyền bầu cử”; sau khi đã
có quyền bầu cử thì sửa là “đấu tranh để được tham gia nghị viện”; sau khi đảng
đã có chân trong Quốc hội rồi, lại đề xuất “đấu tranh giành đa số trong Quốc
hội”. Thế nhưng, các mục tiêu kinh tế nói trên trong cương lĩnh lại không hề
thay đổi.
Trong cuộc bầu cử năm 1920, số nghị sĩ của hai đảng
XHDC và đảng Nhân dân (thuộc phái bảo thủ) cộng lại đã vượt quá đa số trong
Quốc hội (phe đối lập chủ yếu là các nghị sĩ có liên quan tới Hoàng gia Thuỵ
Điển), số ghế nghị sĩ của đảng XHDC nhiều hơn của đảng Nhân dân, hai đảng này
đã lập chính phủ liên hợp cùng nắm chính quyền, người lãnh đạo của đảng XHDC
làm Thủ tướng. Do đảng XHDC là lực lượng chính trong chính phủ, nên đảng này có
điều kiện thực thi cương lĩnh kinh tế quy định trong Cương lĩnh của đảng, bắt
đầu dùng biện pháp thu mua và chuộc lại để xây dựng trên cả nước một số lượng
lớn các doanh nghiệp sở hữu công cộng, trong đó sở hữu nhà nước là chính. Nhưng
vì chưa thể giải quyết tốt vấn đề quản lý các doanh nghiệp nên chẳng bao lâu
sau, sức sống của các doanh nghiệp đó bị giảm sút, hiệu quả và lợi ích không
cao, trong nền kinh tế xuất hiện những khó khăn không đáng có. Trong cuộc bầu
cử năm 1924, số phiếu bầu cho đảng XHDC bị giảm mạnh, kết quả là đảng bị bật ra
khỏi chính phủ, đảng Nhân dân có tính bảo thủ lên nắm chính quyền. Theo cách
nói của các bạn Thuỵ Điển thì đảng đã đánh mất quyền lãnh đạo chính phủ.
“Trong tình hình đó, đảng XHDC Thụy Điển mới bình tĩnh
tổng kết bài học kinh nghiệm; qua thảo luận trong toàn đảng, họ rút ra được một
kết luận rất quan trọng. Đó là: đảng XHDC Thụy Điển là một chính đảng XHCN, do
đó phải kiên trì thực hiện CNXH; nhưng trong việc thực hiện CNXH thì xã
hội hoá quyền sở hữu không phải là một vấn đề căn bản; xã hội hoá phân phối mới
là vấn đề căn bản, tức thực thi phân phối công bằng của cải xã hội như thế
nào để bảo đảm quyền lợi của giai cấp công nhân và người lao động. Lập thật
nhiều doanh nghiệp sở hữu công cộng, nhà nước phải đầu tư rất lớn, tốn nhiều
công sức nhưng hiệu suất và lợi ích đều nói chung không cao, không làm ra được
nhiều của cải, nếu muốn phân phối một cách công bằng thì cũng chẳng có cơ sở
vật chất kinh tế lớn mạnh để làm chỗ dựa mà phân phối. Như vậy thì không có lợi
bằng biện pháp:
-
không lập nhiều doanh nghiệp sở hữu công cộng (trừ các lĩnh vực bắt buộc phải
do nhà nước làm),
-
khuyến khích ủng hộ sự phát triển kinh tế sở hữu phi công cộng, để cho các
doanh nghiệp tư nhân làm ra càng nhiều của cải càng tốt,
-
chính phủ thực hiện phân phối các của cải đó một cách hợp lý nhằm đáp ứng nhu
cầu của người lao động.
-
Có thể giải quyết những vấn đề và tệ nạn phát sinh trong quá trình phát triển
các doanh nghiệp tư nhân trên hai mặt sau:
-
sử dụng thế lực của công đoàn ở tổ chức cơ sở tiến hành đấu tranh cần thiết;
-
sử dụng quyền lập pháp của Quốc hội để hạn chế các tệ nạn đó ngay từ trên
thượng tầng.
Đảng XHDC Thụy Điển đã dựa vào kết luận này để sửa đổi
lại cương lĩnh và điều lệ ban đầu của đảng, qua đó giành được sự ủng hộ của
quần chúng rộng rãi. Trong cuộc bầu cử năm 1932, đảng lại giành được đa số
trong Quốc hội và lại lên nắm chính quyền liên tục 44 năm liền, cho tới năm
1976 mới bị đảng Nhân dân thay thế một thời gian. Trong mấy chục năm đó, đảng
XHDC đã xây dựng Thụy Điển từ một nước kinh tế lạc hậu nhất châu Âu trở thành
nước kinh tế phát triển, đứng thứ 2 trên thế giới về GDP đầu người (sau Thụy
Sĩ). Mặc dù có vài lần bị đảng Nhân dân thay thế nhưng trong phần lớn thời gian
từ 1976 tới nay, đảng XHDC vẫn nắm chính quyền. Đến cuối thập kỷ 80, đầu thập
kỷ 90 thế kỷ XX, phần phân phối đã được xã hội hoá trong toàn bộ của cải quốc
dân, tính theo tỷ lệ thu nhập tài chính của nhà nước so với GDP, đã đạt 57~58%.
Nhờ đó đã có điều kiện xây dựng Thụy Điển thành nước có phúc lợi xã hội nhiều
nhất thế giới, khiến cho lý thuyết xã hội hoá phân phối được vận dụng triệt để
vào trong thực tiễn”.
Về nguyên
tắc phân phối thực hành tại Thụy Điển
Báo cáo Khảo sát viết: “Theo các bạn Thụy Điển
giới thiệu, nguyên tắc phân phối của họ là: Phải vừa có lợi cho việc huy động,
phát huy đầy đủ tính tích cực về mọi mặt, và nâng cao năng suất lao động, lại
vừa không để xuất hiện chênh lệch phân phối quá lớn (ý nghĩa có chút giống như
khẩu hiệu “ưu tiên năng suất, chiếu cố công bằng” mà Trung Quốc mấy năm nay
luôn nhấn mạnh). Biện pháp chủ yếu là: Trong lần phân phối đầu tiên phải kiên
trì nguyên tắc ưu tiên hiệu suất, nghĩa là người làm nhiều, cống hiến nhiều thì
phải được phân phối nhiều; ngược lại thì chỉ được phân phối ít. Nhưng khi tái
phân phối thì phải có sự điều tiết hợp lý, sao cho mức hơn kém trong phân phối
cuối cùng không quá lớn.
Bởi thế, cho tới nay trong cả nước Thụy Điển, chỉ có
một số cực ít các nhà doanh nghiệp xuất sắc, thí dụ những người như Tổng Giám
đốc hãng ô tô Volvo, mới được hưởng mức thu nhập trên 1 triệu cuaron mỗi năm;
còn nhìn chung chênh lệch về thu nhập thực tế của tuyệt đại đa số là không lớn
lắm.[9] Thí dụ, lương của người lãnh đạo cao nhất trong chính phủ so với lương
của công chức nói chung, trước khi nộp thuế chênh lệch có thể tới gấp 4-5 lần,
nhưng sau khi nộp thuế, tỷ lệ chênh lệch chỉ còn bằng 2-3 lần. Điều đặc biệt
là, ngoài lương ra, họ không có bất kỳ phụ cấp cấp bậc và phụ cấp chức vụ nào
khác; cho nên tỷ lệ chênh lệch nói trên là rất nhỏ. Khi giới thiệu với chúng
tôi, các bạn Thụy Điển nói chênh lệch thu nhập ở Thụy Điển có lẽ là nhỏ nhất
thế giới. Tại Thụy Điển, cơ bản đã thanh toán xong cái gọi là sự cách biệt giữa
thành thị với nông thôn, giữa công nhân với nông dân, giữa lao động trí óc với
lao động chân tay. Về vấn đề này, mới đầu chúng tôi còn nửa tin nửa ngờ; nhưng
sau khi quan sát thực địa một số gia đình thuộc các diện khác nhau, chúng tôi
cảm thấy đúng là về đại thể là như vậy”.
Về chế độ
phúc lợi ở Thụy Điển
Báo cáo khảo sát viết: “Mọi người đều biết, phúc
lợi xã hội ở Thụy Điển ở mức nhiều nhất thế giới. Ngoài 4 loại bảo hiểm lớn
được pháp luật qui định (như các nước Tây Bắc Âu khác): bảo hiểm hưu trí dưỡng
lão, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, còn có
nhiều loại hình phúc lợi xã hội khác, nhiều đến mức người ta hình dung Thụy
Điển là nước mà người dân “từ khi lọt lòng đến khi chết” đều được hưởng phúc
lợi. Căn cứ theo kết quả khảo sát của chúng tôi thì câu nói trên đúng là “danh
bất hư truyền”. Thí dụ:
-
Chế độ dưỡng lão: người lao động về hưu được định kỳ lĩnh lương hưu đủ
sống, người già yếu không tự lo liệu cuộc sống được thì có thể vào ở trong viện
dưỡng lão của nhà nước, được hưởng sự chăm sóc y tế miễn phí, điều kiện sống
tại đây tương đương với khách sạn 3 sao.
- Chế
độ bảo hiểm thất nghiệp: nếu người lao động thất nghiệp, họ được định kỳ
lĩnh tiền cứu tế thất nghiệp, được các trung tâm giới thiệu việc làm của nhà
nước miễn phí giới thiệu việc làm trong phạm vi toàn quốc. Nếu nơi làm việc mới
cách xa chỗ ở hiện nay, nhà nước có thể giúp một phần kinh phí dọn nhà.
- Chế
độ giáo dục: không những tất cả mọi người đều được đi học không mất tiền
suốt đời mà luật pháp còn qui định, từ nhà trẻ cho đến bậc trung học, nếu trong
lớp có một học sinh người nước ngoài, thì nhà trường phải bố trí một giáo viên
biết tiếng mẹ đẻ của em đó (dĩ nhiên đều là giáo viên kiêm nhiệm), mỗi tháng
phải lên lớp một số giờ nhất định bằng tiếng mẹ đẻ cho em này. Ở bậc đại học,
từ lúc vào học cho đến lúc tốt nghiệp, tuy có qui ước số năm học nhất định
nhưng pháp luật qui định, nếu học sinh nào tốt nghiệp rồi mà chưa tìm được công
việc thích hợp và không muốn rời nhà trường thì có thể tiếp tục học tập miễn
phí. Các bạn Thụy Điển cho biết, hiện nay hầu như ở trường nào cũng có những
sinh viên lớn tuổi đã học 7-8 năm hoặc hơn trong trường.
- Chế
độ sinh đẻ: phụ nữ sinh con được nghỉ đẻ 18 tháng có lương (12 tháng đầu
hưởng 100% lương, 6 tháng cuối hưởng 90%). Nếu đến tháng thứ 18 lại có thai, sẽ
tiếp tục được nghỉ tiếp hưởng 90% lương cho đến khi đứa trẻ ra đời lại được
hưởng chế độ nghỉ đẻ 18 tháng. Ngoài ra, nếu người vợ làm công việc tương đối
quan trọng không thể hoặc không muốn nghỉ ở nhà quá lâu như vậy, thì hai vợ
chồng có thể bàn bạc để chồng có thể nghỉ thay vợ.
-
Chế độ nhà tù: người bị giam giữ hoặc tội phạm đang lĩnh án được nhà nước
nuôi ăn ở không mất tiền, ngoài ra, mỗi tháng còn được lĩnh một khoản tiền mặt
trợ cấp tuy không lớn nhưng cũng không phải là nhỏ lắm. Nhờ các khoản phúc lợi
xã hội nói trên, đời sống cơ bản của mỗi người dân trong bất kỳ tình huống nào
đều có sự bảo đảm cần thiết. Vì thế bộ mặt xã hội nói chung là tốt đẹp, cuộc
sống yên bình, trật tự nền nếp, thực là có cái cảnh “ra đường không sợ mất cắp,
đêm nằm không phải đóng cửa”. Các cán bộ sứ quán Trung Quốc ở đây cho biết, mấy
chục năm qua họ rất ít khi bị mất cắp.
“Dĩ nhiên sự việc nào cũng có hai mặt. Qua một số điều
chúng tôi đã tiếp xúc hoặc nghe kể, chế độ phúc lợi suốt đời nói trên của Thụy
Điển ít nhất cũng tồn tại các vấn đề và mâu thuẫn trên hai mặt sau.
Thứ nhất, chế độ phúc lợi cao này là dựa vào chế độ thu thuế
cao. Do thu thuế cao nên thu nhập tài chính nhà nước của Thụy Điển chiếm gần
60% GDP, mức cao nhất thế giới. Nghĩa là gần 3/5 của cải toàn xã hội bị nhà
nước tập trung vào tay mình, tỷ lệ để lại cho các doanh nghiệp và người dân quá
nhỏ, trên mức độ nhất định tất sẽ ảnh hưởng tới tính tích cực của doanh nghiệp
và người lao động. Đặc biệt là thuế suất luỹ tiến của thuế thu nhập, bậc cao
nhất từng dùng thuế suất trên 80% (nay vẫn trên 70%), nghĩa là gần hết số tiền
mà người lao động vất vả kiếm được lại không được hưởng. Điều đó dẫn đến trường
hợp khi doanh nghiệp hoặc đơn vị cần hoàn thành một công việc cần kíp thì ngoài
8 giờ làm việc ra, người lao động nói chung đều không muốn làm ngoài giờ, vì
thu nhập làm thêm mình chẳng được hưởng bao nhiêu. Bất mãn nhất là những người
có thu nhập cao. Thập kỷ 80, một danh thủ quần vợt nổi tiếng thế giới người
Thụy Điển chỉ vì bất mãn với thuế suất quá cao của nước này đã bỏ sang Anh định
cư.
Thứ hai, chế độ phúc lợi cao rất dễ bị một số người lợi dụng
kiếm chác những khoản lợi ích họ không đáng được hưởng. Trong thời gian thăm
Thụy Điển, khi đến một gia đình công nhân được gọi là có thu nhập thấp nhất,
chúng tôi đã phát hiện vấn đề đó. Gia đình này có 4 cô con gái rồi, nhưng bà
chủ lại có thai tiếp. Cảm thấy rất kỳ lạ, chúng tôi hỏi ông chủ tại sao đẻ
nhiều như vậy. Ông trả lời: tôi đã tính toán từ lâu, thấy để vợ ở nhà đẻ con là
có lợi nhất. Chẳng những bà ấy được nghỉ một năm rưỡi có lương, mà khi hết thời
hạn đó lại có thai nữa thì tiếp tục được nghỉ ở nhà vẫn có lương, nghĩa là bà
ấy được nghỉ phép dài hạn ở nhà cai quản công việc nội trợ phức tạp. Hơn nữa,
chính phủ còn khuyến khích sinh đẻ, ai có nhiều con thì được hưởng chế độ trợ
cấp luỹ tiến; cứ thêm một con thì hàng tháng được trợ cấp thêm ít nhất 1.000
cuaron, lại không phải đóng thuế thu nhập, như thế rõ ràng làm tăng thu nhập
của nhà tôi. Khi chúng tôi hỏi: như thế, ông có bị thiệt hại gì không? Mới đầu
ông ta bảo không, nhưng sau một lúc suy nghĩ, lại bảo là cũng có thiệt ở chỗ
không thể đi du lịch xa, vì vợ con lóc nhóc đông quá đi xa rất bất tiện … Câu
chuyện này cho thấy, chế độ phúc lợi xã hội quá cao quá nhiều của Thụy Điển
cũng cần thiết phải điều chỉnh, cải tiến hợp lý…
Tác
giả: Ngô Giang (Trung Quốc) | Biên dịch và chú thích: Nguyễn Hải
Hoành
-----------------------/
[7]
Ferdinand Lassalle (1825-1864), người Đức, nhà văn, người tuyên truyền cổ động
cho công nhân, thuộc giai cấp tiểu tư sản; tham gia Cách mạng 1848-1849, quen
biết Mác và Ang-ghen từ đó (trao đổi thư từ cho đến 1862); thành lập Hội Công
nhân toàn Đức (1863) và là Chủ tịch Hội, bằng việc đó, ông đã đáp ứng nguyện
vọng của các công nhân tiến bộ muốn tách khỏi giai cấp tư sản tự do về mặt tổ
chức. Hệ tư tưởng “CNXH nhà nước quân chủ Phổ” đã dẫn Lassalle tới chỗ liên
minh với Bismarck ,
do đó bị Mác phê phán. ( theo Sđd3).
[8]
Năm 2001, thành phần tư nhân chiếm 90% giá trị sản xuất công nghiệp (theo Sđd2).
[9]
Số liệu năm 1992 : 10% số người có thu nhập thấp nhất chiếm 3,7% tổng thu nhập
toàn quốc, 10% số người có thu nhập cao nhất chiếm 20,1%. Nghĩa là chênh
lệch giầu nghèo khá nhỏ so với các nước khác : chỉ số này ở Pháp là 2,5 và
24,9% (1989); ở Mỹ là 1,5 và 28,5% (1994); ở Trung quốc là 2,2 và 30,9% (1995).
(theo Sđd2).
---------------
Đừng tưởng bác cả Trọng , ông Huynh , Ông Rứa .v.v.v. ngu mội đến lỗi không biết đi theo cnxh là ngu mội , là lội dọc sông để lên bờ !!!!
Trả lờiXóaĐến người ngu còn biết nữa là họ . Nhưng họ vẫn hô hào nhân dân theo cnxh vì tài cán của họ chỉ là phọt phẹt thuộc lòng mấy câu lý luận giáo điều , sáo rỗng , mà họ lại được cơ cấu trong bộ chính trị và trên cả là họ thống trị tuyêt đối và toàn diện dân tộc và nhân dân VN.
Cuối cùng cả chỉ nhân dân VN là khổ , còn họ và vợ con được đặc ân có bác sĩ riêng , bệnh viện riêng , bộng lộc này khác .v.v.v. Cũng vì vậy họ mặc xác cho dân tộc VN bị các dân tộc láng riềng khác kinh rẻ !!!!!
Thử hỏi : NẾU LÃNH ĐẠO cs VN CŨNG CÓ CUỘC SỐNG LAM LŨ NHƯ NHỮNG NGƯỜI DÂN CẦN LAO VN XEM HỌ CÓ THAY ĐỔI CHẾ ĐỘ KHÔNG ?. Tôi tin rằng họ thay đổi ngay lập tức !!!
Về DA sân bay Long Bản Lề - một số phát biểu ba trợn của đại biểu Cuốc Bổ:
Trả lờiXóa- Dương Trung Quốc - Đồng Nai
"Nhưng phải đến thời điểm chúng ta đưa ra Quốc hội, sau gần 10 năm triển khai, rõ ràng cách làm như thế tạo nên sự rất khó xử để rồi phải đưa nghị quyết của Đảng, chủ trương của Đảng ra. Bản thân chúng tôi nghĩ Đảng đã quyết định rồi thì Quốc hội làm được gì? Lẽ ra việc làm này chúng ta phải triển khai từ lâu rồi chứ không phải đến thời điểm này mới triển khai để rồi chúng ta lại tiếp tục ngồi bàn. Bàn cũng không đi đến đâu."
(Đồ cò mồi, chân gỗ!)
- Trần Du Lịch - TP Hcm
"nếu mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất thì khả năng đền bù, giải tỏa, tái định cư là bất khả thi."?
(Chúng mày còn thu hẹp làm sân gôn mà! Mở cái gì? Nói như hủi!)
- Nguyễn Ngọc Bảo - Vĩnh Phúc
"Sau khi phân tích những yêu điểm, nhược điểm và đánh giá tình trạng quá tải của sân bay Tân Sơn Nhất và khả năng mở rộng của sân bay quân sự Biên Hòa, bằng những phân tích, những số liệu cụ thể cho thấy sự lựa chọn xây dựng cảng hàng không quốc tế Long Thành là đúng đắn của Quốc hội và Chính phủ."
(Đồ nịnh bợ!)
- Nguyễn Sỹ Cương - Ninh Thuận
"Chúng ta cứ lo xây cảng hàng không quốc tế Long Thành sẽ lãng phí. Nhưng nếu không xây cảng hàng không quốc tế Long Thành thì chúng ta sẽ mất đi một nguồn thu không nhỏ và chúng tôi coi đó là một sự lãng phí."
(Lảm nhảm phét lác!)
- Nguyễn Ngọc Phương - Quảng Bình
"Tôi muốn nhấn mạnh thêm một điểm mà có niềm tin trong trả nợ là dự án xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành là dự án sinh lợi và mang lại hiệu quả xã hội lớn. Từ tác động đến hội nhập, thu hút đầu tư, tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển bền vững thì cảng còn là mối giao thông thu hút quan trọng trong khu vực. Số lượng cất, hạ cánh hàng năm tăng cao, theo số liệu tính toán thì năm 2010 có 109.421 lượt, đến năm 2014 có 153.939 lượt cất, hạ cánh, như vậy tăng 52%, tương đương với 11.129 lượt thì bình quân tăng trưởng mỗi năm 13%."
(Gã này trổ tài đếm cua trong hang!)
- Huỳnh Văn Tính - Tiền Giang
"Có thể khẳng định rằng, thời cơ, thời điểm để Quốc hội thông qua xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành đã chín muồi, các thành tố về thiên thời, địa lợi, nhân hòa cũng đã được hợp thành."
(Càng nói càng ngu!)
- Nguyễn Thị Kim Ngân
"Để giải quyết tình trạng quá tải ở tất cả các công đoạn của sân bay Tân Sơn Nhất trong điều kiện không thể cải tạo mở rộng."?
(Sợ tướng Lợn nó thịt à? Không dám đụng đến sân golf của nó, phải không?!)
"đảng XHDC"
Trả lờiXóaHihi, các bác muốn em trích chính Marx thóa mạ hình thức Xã Hội Chủ Nghĩa này không ?
"song chủ yếu là chủ nghĩa Mác Ăng-ghen"
Bên này tụi em gọi trò khỉ này mới đúng là chủ nghĩa Mác không/phi Mác . Những tư tưởng xã hội dân chủ xuất hiện cùng thời với Marx, nhưng bị Marx không tiếc lời thóa mạ . Đọc Proudhon, và (Marx xem là kẻ thù, viết hẳn cả 1 bài luận dài dằng dặc để chửi) Feuerbach sẽ thấy .
Đám học trò của Proudhon & Feuerbach thời nay mà kêu theo chủ nghĩa Mác, có phải đây là chủ nghĩa Mác không/phi/phản Mác hay không ?
Bạn nên đọc " Sự khốn cùng của triết học" của Mác, một quyển sách hay.
Xóa