Phát biểu của Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ
Daniel Russel tại hội thảo Biển Đông của CSIS
Daniel Russel tại hội thảo Biển Đông của CSIS
Trong bài
phát biểu của mình, Trợ lý Ngoại trưởng Russel khẳng định đối với Mỹ, vấn đề
không phải là các đảo đá và bãi cạn ở Biển Đông hay là các nguồn tài nguyên
trong vùng biển này, mà vấn đề chính là các luật lệ. Mỹ không hề trung lập khi
vấn đề có liên quan đến việc tuân thủ luật pháp quốc tế và sẽ mạnh mẽ đứng về
phía luật pháp.
Xin chào quý
vị, thật vinh dự cho tôi khi được quay lại CSIS. Tôi sẽ bắt đầu bài
phát biểu của mình bằng việc nêu ra bối cảnh tình hình hiện nay. Mỹ đã luôn có
lợi ích ở Châu Á và lợi ích đó ngày càng lớn hơn khi các nền kinh tế của chúng
ta kết nối chặt chẽ với nhau và người dân chúng ta gần gũi nhau hơn nhờ việc đi
lại thuận tiện và internet.
Trong vòng bảy thập kỷ qua chúng tôi đã cùng làm việc với các nước
đồng minh và đối tác để cùng nhau bảo vệ an ninh và phát triển thịnh vượng. Và
đặc biệt trong vòng sáu năm rưỡi qua, chúng tôi đã đầu tư để xây dựng quan hệ hợp
tác với từng nước một trong khu vực - đây chính là chính sách tái cân bằng.
Có rất nhiều sự đầu tư mà thế giới và Châu Á cần để có thể tiếp tục
tăng trưởng - đầu tư vào nguồn lực con người, vào kinh doanh, vào cơ sở hạ tầng.
Nhưng cũng quan trọng không kém là sự đầu tư vào “nguồn vốn hợp tác”, chính là
đầu tư vào luật pháp và trật tự quốc tế bởi nó góp phần tạo thuận lợi cho quan
hệ giữa các quốc gia, thúc đẩy hội nhập khu vực nhằm giúp các quốc gia quản lý
các tranh chấp của mình một cách hoà bình. Chính sách của Mỹ là đầu tư một cách
cân bằng vào tất cả các lĩnh vực này.
Trong bảy mươi năm qua, một hệ thống dựa trên luật lệ là nền tảng
trung tâm tạo nên sự tăng trưởng trên toàn cầu nhưng thường bị đánh giá thấp.
Và điều này có vẻ đúng ở bối cảnh Châu Á. Nhiều nền kinh tế đã tăng trưởng và
tiếp tục tăng trưởng nhờ vào thương mại quốc tế, đặc biệt là thương mại với Mỹ.
Những thập kỷ qua, các quốc gia Châu Á đã đạt được rất nhiều thành
tựu trong việc giảm đói nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo ra nhiều cơ hội
cho người dân cũng như phát triển về mặt xã hội. Và họ làm được điều đó nhờ sự
chăm chỉ, nhờ sự hợp tác với nhau, nhờ hợp tác với Mỹ và nhờ cùng phát triển và
vận hành trong một hệ thống dựa trên luật lệ.
Mỹ đang mong muốn giúp đỡ các nước Châu Á đạt được nhiều thành tựu
hơn thế nữa. Chúng tôi đang muốn đưa sự tăng trưởng kinh tế bền vững và toàn diện
lên một đẳng cấp mới thông qua Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
TPP là một hiệp định của tương lai bởi nó vượt ra ngoài khuôn khổ các vấn đề
thương mại và phát triển để hướng đến những tiêu chuẩn cao hơn trong việc bảo vệ
môi trường và quyền lao động. TPP sẽ hỗ trợ tầng lớp doanh nhân trung lưu ngày
một phát triển, năng động có cơ hội giao lưu với thế giới và làm ăn kinh doanh
thông qua một mạng lưới Internet kết nối rộng mở.
Chúng tôi sẽ đưa cấu trúc an ninh khu vực lên một tầm cao mới bằng
cách đầu tư vào các thể chế như Thượng đỉnh Đông Á (EAS), ASEAN bên cạnh các
cam kết lâu dài của chúng tôi đối với các thể chế toàn cầu như Liên Hợp Quốc
(UN). Các thể chế này sẽ giúp bảo vệ các quy tắc luật lệ và xử lý các thách thức
khó khăn, giúp các quốc gia dàn xếp mâu thuẫn khi đàm phán và ngoại giao song
phương không thành công, giúp các tranh chấp được giải quyết một cách hoà bình,
thẳng thắn và công bằng.
Đứng sau ủng hộ các thể chế này sẽ là nhiệm vụ chính của hệ thống
đồng minh, đối tác của Mỹ. Đây chính là mạng lưới giúp giữ vững hoà bình trong
khu vực kể từ khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ hai. Và thông qua một loạt
thoả thuận quan trọng với các đối tác an ninh chủ chốt trong vòng vài năm qua,
chúng tôi đã làm mới và hiện đại hoá các quan hệ để chúng có thể tiếp tục tồn tại
trong nhiều thập kỷ tới.
Chúng tôi đang đẩy mạnh việc bảo vệ môi trường thông qua việc bảo
tồn đại dương, chiến đấu chống lại biến đổi khí hậu và các hệ quả của nó thông
qua Sáng kiến Hạ nguồn Mekong nhằm giúp cho tăng trưởng kinh tế không ảnh hưởng
đến sự bền vững của môi trường.
Khi theo đuổi các mục tiêu trên ở khu vực, chúng tôi đã làm việc rất
nhiều và rất tích cực với Trung Quốc, thông qua hàng chục các cơ chế đối thoại
cấp cao, các cuộc gặp giữa Tổng thống Obama với Chủ tịch và Thủ tướng Trung Quốc.
Chúng tôi đã làm rất nhiều để có thể thông hiểu lẫn nhau. Chúng tôi cùng làm việc
qua cơ chế Đối thoại Chiến lược và Kinh tế mà chúng tôi vừa tiến hành tháng trước
tại Washington. Chúng tôi còn làm việc với nhau qua đủ loại cơ chế tham vấn cấp
cao. Kết quả đạt được của các nỗ lực này là tạo dựng một nền tảng cho quan hệ
Trung-Mỹ để có thể xử lý những căng thẳng, thậm chí khủng hoảng.
Trong vòng vài năm qua, tôi cho rằng sự cố gắng này đã có những đền
bù xứng đáng, thể hiện qua các tiến bộ đáng kể trong nhiều lĩnh vực hợp tác như
chính sách giảm thải khí carbon, chống cướp biển, chiến đấu chống dịch bệnh
ebola, xây dựng một tương lai tốt hơn cho Afghanistan, vấn đề Bắc Triều Tiên, vấn
đề visa và các thông lệ tạo thuận lợi cho doanh nhân.
Tuy nhiên, không may mắn là vấn đề Biển Đông lại không hề phù hợp
với khung cảnh hợp tác này. Mỹ không phải là một bên yêu sách. Và tôi đã nhấn mạnh
điều này ở CSIS và nhiều nơi khác. Các tranh chấp biển và lãnh thổ về bản chất không
phải là một vấn đề giữa Mỹ và Trung Quốc. Tranh chấp là giữa Trung Quốc và các
nước láng giềng và vấn đề chủ chốt nằm ở chỗ Trung Quốc muốn trở thành một quốc
gia hay một cường quốc như thế nào. Nhưng vì nhiều lý do, các yêu sách đối lập
và cách hành xử gây rối ở Biển Đông đã gây ra nhiều căng thẳng nghiêm trọng
trong quan hệ Mỹ-Trung.
Như các vị đã thảo luận sáng nay, rõ ràng ở Biển Đông đã có một lịch
sử các khẳng định yêu sách đối lập nhau về chủ quyền và quyền tài phán và thậm
chí là xung đột vũ trang vào những năm 1974, 1988. Không có ai là thiên thần ở
đây cả. Sự chiếm đóng các thực thể tranh chấp ở Biển Đông khiến cho tình hình ở
đây trở thành một cuộc tranh giành khốc liệt. Nhưng các bên yêu sách vào năm
2002 đã thoả thuận dừng hành động này. Các bên yêu sách cùng với các quốc gia
khác trong ASEAN đã ký kết một bản tuyên bố ứng xử (DOC) với Trung Quốc, trong
đó họ cam kết “sẽ kiềm chế đối với các hoạt động có thể gây phức tạp hoặc leo
thang tranh chấp và ảnh hưởng đến hoà bình ổn định, bao gồm chiếm đóng các thực
thể đang không có người ở”. Họ đã cam kết sẽ giải quyết mâu thuẫn một cách tích
cực và sẽ đàm phán một bộ quy tắc ứng xử (COC) nêu ra cách hành xử có trách nhiệm
trên biển.
Tuy nhiên, trong 13 năm sau đó, các công việc đàm phán về bộ quy tắc
đã bị đình trệ và DOC không đủ khả năng ngăn chặn đối đầu hay giúp các bên giải
quyết tranh chấp một cách hoà bình. Gần đây, mức độ quan ngại của khu vực leo
thang nhanh chóng khi quy mô và tốc độ cải tạo đất của Trung Quốc được công
khai. Tuyên bố chủ tịch của Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN vào tháng 4 đã nêu vấn đề
thẳng thắn một cách bất thường - đó là “quan ngại một cách nghiêm trọng về hoạt
động cải tạo đảo trên Biển Đông, có thể làm xói mòn lòng tin ở khu vực và tổn hại
hoà bình, an ninh và ổn định”. Đối với ASEAN, tôi tin đây là một tuyên bố rất mạnh.
Mặc dù tuyên bố Trung Quốc ngày 16/6 là sẽ sớm dừng hoạt động cải
tạo đảo để nhằm trấn an dư luận nhưng hệ quả của những hoạt động này vẫn rất
đáng báo động. Trung Quốc đã khẳng định trong tuyên bố đó là có thể xây dựng
các cơ sở quân sự trên các đảo cải tạo. Vì vậy Mỹ đang thúc giục các bên cần
làm sống lại tinh thần hợp tác như đã nêu trong tuyên bố ứng xử năm 2002.
Chúng tôi cho rằng trong ASEAN có một sự đồng thuận rộng rãi về việc
giảm căng thẳng và thúc đẩy giải quyết tranh chấp hoà bình. Mỹ ủng hộ các nỗ lực
của ASEAN trong việc nhanh chóng đạt được một COC hiệu quả và mạnh mẽ, được xây
dựng dựa trên DOC bằng cách truyền tải tinh thần hợp tác thông qua việc quy định
rõ các hành động được phép và không được phép tiến hành trên Biển Đông.
Nhưng để làm được điều này, các bên cần phải tạo ra không gian cho
ngoại giao. Nếu chúng ta nhớ lại nguyên tắc cơ bản đó là “khi bạn đang ở trong
hố, thì không nên tiếp tục đào sâu hơn nữa” thì đây chính là lời khuyên mà Mỹ
đang muốn gửi đến các bên yêu sách. Cần giảm nhiệt, tạo ra không gian thương thảo
bằng cách (i) dừng hoạt động cải tạo trên các thực thể ở Biển Đông, (ii) dừng
xây dựng các cơ sở mới, (iii) dừng quân sự hoá các điểm chiếm đóng hiện tại.
Rõ ràng đây là những bước đi mà các bên yêu sách có thể cam kết
ngay lập tức, không tốn của họ một chút gì mà có thể làm giảm căng thẳng và rủi
ro, đồng thời mở đường cho việc tiến tới giải quyết dứt điểm tranh chấp. Ngoại
trưởng John Kerry đã thẳng thắn nêu quan điểm này với Trung Quốc và các bên yêu
sách khác, và sẽ gặp những người đồng cấp của ông đầu tháng tới ở Malaysia
trong cuộc họp Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) nhằm thúc đẩy tiến triển ở Biển
Đông. Đây là một ưu tiên quan trọng đối với Mỹ.
Các bước đi tiến tới việc dừng toàn bộ các hoạt động ở Biển Đông
và một bộ quy tắc ứng xử sẽ tạo ra không gian đối ngoại và gìn giữ hoà bình
nhưng chúng sẽ không giải quyết vấn đề ranh giới biển và chủ quyền đối với các
thực thể. Vậy hướng đi sắp tới sẽ là gì?
Khi có các yêu sách đối lập thì có hai cách giải quyết hòa bình đối
với các bên tranh chấp đó đàm phán hoặc phân xử bằng tòa trọng tài. Các quốc
gia trong khu vực trên thực tế đã giải quyết tranh chấp biển và lãnh thổ một
cách hòa bình và hợp tác bằng cả hai con đường đàm phán trực tiếp và thông qua
cơ chế giải quyết tranh chấp bên thứ ba. Có thể nêu một vài ví dụ như Indonesia
và Philippines gần đây đã thống nhất về biên giới biển, Malaysia và Singapore
đã dùng đến thủ tục tại Tòa án Công lý Quốc tế để giải quyết mâu thuẫn liên
quan đến eo biển Singapore, Tòa Trọng tài Luật biển quốc tế đã phân định ranh
giới biển giữa Bangladesh và Myanmar. Rõ ràng là điều này hoàn toàn có thể thực
hiện được.
Có một điểm chung về các tranh chấp biên giới biển đã được giải
quyết một cách hòa bình, đó là các bên đều có yêu sách và yêu sách rất mạnh mẽ
nhưng họ khẳng định các yêu sách của mình dựa trên các thực thể đất liền và các
bên sẵn sàng giải quyết mâu thuẫn của mình trên cơ sở phù hợp với luật quốc tế.
Đây chính là lý do vì sao từ trước đến nay Mỹ đều nhất quán kêu gọi
các bên tranh chấp làm rõ phạm vi yêu sách của mình ở Biển Đông trên cơ sở phù
hợp với luật quốc tế như được thể hiện trong Công ước Luật Biển 1982 (UNCLOS).
Làm vậy sẽ giúp thu hẹp những bất đồng và tạo nền tảng cho đàm phán và các giải
pháp mang tính hợp tác khác.
Đáng tiếc là tôi không thấy có ai tin rằng có thể đạt được một kết
quả đàm phán giữa Trung Quốc và các bên yêu sách trong bối cảnh như hiện nay.
Bên cạnh đó, các yêu sách chồng chéo nhiều bên ở một số vùng ở Biển Đông khiến
việc đạt được một giải pháp càng khó khăn hơn. Và trên hết là lập trường chính
trị cực đoan của một số bên khăng khăng cho rằng yêu sách của họ là “không
thể chối cãi” bởi đấy là lãnh thổ của họ, dù nó cách rất xa so với bờ biển của
họ, “được tổ tiên trao cho họ” và thề rằng sẽ không từ bỏ “dù một tấc đất”.
Điều này sẽ dẫn chúng ta đến đâu? Và vụ kiện trọng tài sẽ như thế
nào? Như quý vị đã biết, hiện nay đang diễn ra một vụ kiện trọng tài giữa
Philippines và Trung Quốc theo UNCLOS. Trọng tâm của vụ kiện là về cái gọi là
đường chín đoạn, liệu đường này có cơ sở pháp lý nào theo luật pháp quốc tế
không? Và các thực thể mà Trung Quốc đang chiếm đóng ở Biển Đông có thể tạo ra
các đặc quyền biển không và nếu có thì sẽ được hưởng những vùng biển nào? Nói
cách khác, bất kể bên nào là chủ sở hữu thì các thực thể, ví dụ như Đá Vành
Khăn, sẽ được hưởng vùng biển 12 hải lý hay vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý
và thềm lục địa?
Đây là những câu hỏi mà Tòa được yêu cầu phân xử. Điều cần lưu ý ở
đây là Tòa không được yêu cầu, và trên thực tế cũng không có thẩm quyền, phân xử
về vấn đề chủ quyền của các thực thể tranh chấp. Mọi người đều hiểu rằng vấn đề
chủ quyền nằm ngoài phạm vi thẩm quyền của Tòa. Các bên yêu sách cần đồng ý đưa
tranh chấp ra một tòa án hoặc tòa trọng tài, thường sẽ là Tòa án Công lý Quốc tế
(ICJ). Nhưng theo UNCLOS, tòa được xem xét có thẩm quyền đối với các vấn đề thuộc
UNCLOS và các vấn đề mà Philippines nêu ra. Và nếu tòa có thẩm quyền, tòa sẽ
xem xét liệu các lập luận của Philippines có giá trị hay không.
Tất nhiên, Mỹ không phải là một bên tham gia vụ kiện này. Chính
sách của Mỹ là không đưa ra quan điểm về vụ kiện. Nhưng khi Philippines và
Trung Quốc trở thành thành viên của UNCLOS, cả hai nước đều nhất trí với cơ chế
giải quyết tranh chấp bắt buộc của công ước này. Và theo đó, phán quyết của tòa
trọng tài sẽ có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý đối với các bên tranh chấp.
Đây là một hiệp ước. Và để giữ gìn vai trò của luật pháp, cả Philippines và
Trung Quốc đều có nghĩa vụ chấp hành bất kỳ phán quyết nào của vụ kiện, dù
thích hay không.
Trung Quốc cho rằng Tòa không có thẩm quyền đối với vụ kiện và Tòa
hiện đang xem xét cụ thể vấn đề này trong buổi điều trần vừa mới kết thúc ở La
Hay bằng cách nghiên cứu kỹ lưỡng Tài liệu Lập trường của Trung Quốc. Chúng ta
sẽ chờ xem kết quả như thế nào. Nhưng nếu Tòa cho rằng mình có thẩm quyền, Tòa
sẽ tiếp tục xem xét các vấn đề nội dung của vụ kiện, bao gồm tính hợp pháp
trong yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc.
Trong trường hợp Tòa kết luận rằng đường chín đoạn không phù hợp với
luật quốc tế và các thực thể nêu trong vụ kiện không tạo ra vùng đặc quyền kinh
tế 200 hải lý và thềm lục địa thì phạm vi chồng lấn của các thực thể tranh chấp
và các điểm tranh chấp sẽ được giảm thiểu một cách đáng kể. Nhưng chúng ta cũng
cần nhớ là kể cả có phán quyết như vậy thì vấn đề chủ quyền và ranh giới biển vẫn
chưa được giải quyết.
Tôi đã nhắc rất nhiều đến UNCLOS mặc dù Mỹ vẫn chưa thông qua công
ước này. Thực chất, việc phê chuẩn UNCLOS đã được rất nhiều chính quyền, Dân chủ
cũng như Cộng hòa ủng hộ, kể từ khi UNCLOS được ký và gửi lên Thượng viện năm
1994. Việc phê chuẩn cũng được quân đội, các ngành công nghiệp, các tổ chức môi
trường và các chủ thể liên quan khác ủng hộ. Vì lợi ích an ninh của Mỹ, tôi hy
vọng rằng Thượng viện Mỹ sẽ ủng hộ và sớm thông qua việc phê chuẩn.
Tuy nhiên, ngay cả khi chúng tôi khuyến khích các bên tôn trọng
UNCLOS và tìm kiếm các giải pháp lâu dài, Mỹ có nghĩa vụ bảo vệ các lợi ích của
mình. Tôi xin trình bày các lợi ích đó là gì:
(1) bảo vệ quyền tự do hàng hải và hàng không không bị cản trở và
các quyền sử dụng biển hợp pháp bao gồm thương mại không bị cản trở bởi tất cả
các quốc gia chứ không riêng gì hải quân Mỹ;
(2) tôn trọng các cam kết với đồng minh và củng cố lòng tin của
các đối tác và khu vực đối với nước Mỹ;
(3) hỗ trợ sự phát triển hiệu quả của các thể chế khu vực bao gồm
một ASEAN thống nhất;
(4) thúc đẩy các hành xử có trách nhiệm đối với một môi trường biển
rất quan trọng;
(5) khuyến khích sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc theo cách tạo
nên sự tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn giữ được ổn định khu vực; phù hợp với luật
pháp và các tiêu chuẩn quốc tế
(6) cuối cùng và trên hết là ủng hộ một trật tự quốc tế dựa trên sự
tuân thủ luật pháp và giải quyết hòa bình tranh chấp mà không đe dọa hay sử dụng
vũ lực.
Trên thực tế, bên cạnh sự ủng hộ của chúng tôi dành cho vai trò của
pháp luật, chúng tôi đang tiến hành các bước đi giúp các nước cùng hợp tác với
nhau trong các vấn đề biển. Ví dụ như hiện tại Mỹ đang đầu tư rất nhiều vào việc
xây dựng năng lực nhận thức biển cho các nước ven biển bởi điều này sẽ giúp các
nước bảo vệ an toàn trên biển, đối phó với các thách thức như cướp biển, ô nhiễm
môi trường biển, nạn buôn lậu trái phép. Quan trọng hơn, tăng cường nhận thức
biển cũng giúp thúc đẩy sự minh bạch, và điều này phù hợp với lời kêu gọi của Mỹ
đến tất cả các bên yêu sách cần công khai hơn về năng lực, hành động và ý định
của mình trên biển.
Các hoạt động tự do hàng hải cũng là một phần trong chính sách
toàn cầu của Mỹ nhằm khuyến khích sự tuân thủ luật pháp quốc tế trên biển. Mục
đích của chúng tôi là đảm bảo rằng không những hải quân và không quân Mỹ có thể
thực hiện các quyền tự do hàng hải và hàng không của mình mà ngay cả tàu thuyền
và máy bay của những quốc gia nhỏ nhất cũng có thể thực hiện các quyền này mà
không bị rủi ro gì. Các nguyên tắc về quyền tự do thương mại không bị cản trở
phải được áp dụng như nhau đối với tàu thuyền của tất cả mọi quốc gia trên thế
giới.
Và theo luật pháp quốc tế, tất cả các quốc gia không riêng gì Mỹ
được tận hưởng quyền tự do sử dụng biển một cách hợp pháp và nhiệm vụ của ngoại
giao và các hoạt động quân sự của Mỹ là bảo vệ các quyền đó. Vì vậy đối với Mỹ, vấn
đề không phải là các đảo đá và bãi cạn ở Biển Đông hay là các nguồn tài nguyên
trong hay dưới vùng biển này, mà vấn đề chính là các luật lệ, là môi trường khu
vực mà chúng ta đang sinh sống. Thế nên, Mỹ sẽ tiếp tục bảo vệ các luật lệ,
tiếp tục khuyến khích các quốc gia tuân thủ luật lệ. Chúng tôi sẽ kêu gọi các
nước tuân thủ nguyên tắc về tình láng giềng hữu nghị, tránh các cuộc đối đầu
nguy hiểm.
Tôi xin kết thúc bằng việc nhắc lại rằng chúng tôi đang có
hàng loạt sáng kiến hợp tác dự định sẽ triển khai trong khuôn khổ các cuộc họp
ASEAN, ARF, APEC và EAS sắp tới. Mục đích chính là để tạo nên các tiến triển
nhanh chóng và hiệu quả ở Biển Đông trong khi tình hình căng thẳng đang có vẻ lắng
dịu. Tổng thống Obama và Ngoại trưởng Kerry đã tỏ rõ rằng mình không ngại
đối mặt với những thách thức khó khăn nhất trong chính sách đối ngoại của Mỹ và
của thế giới. Chúng ta đã nhiều lần chứng kiến điều này. Dù đã đến giai đoạn cuối
của chính quyền Obama nhưng Mỹ luôn sẵn sàng làm nhiều hơn nữa để thắt chặt
quan hệ với đồng minh, ASEAN và Trung Quốc.
Đối với Mỹ, khu vực hay Trung Quốc, tìm ra một con đường đi hợp
pháp, hòa bình và có trách nhiệm đối với tranh chấp ở Biển Đông là một điều kiện
tiên quyết để đạt được các mục tiêu lâu dài và rộng lớn của mình. Và tôi xin dừng
ở đây để dành chút thời gian cho phần hỏi đáp.
Hỏi (Ngô
Sĩ Tồn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nam Hải, Trung Quốc): Tôi có hai câu hỏi, câu hỏi thứ nhất là về chính sách của Mỹ ở Biển
Đông và câu hỏi thứ hai là về hoạt động cải tạo đạo như ông vừa nêu trong bài
phát biểu. Thứ nhất về chính sách của Mỹ ở Biển Đông, chúng ta đã biết trước giờ
Mỹ giữ quan điểm trung lập và chính sách này cho đến nay vẫn phát huy hiệu quả.
Nhưng theo quan điểm Trung Quốc, Mỹ không còn duy trì chính sách này nữa. Mỹ dường
như đang ủng hộ một bên nào đó, nếu như chúng ta nhìn vào vụ kiện và vụ việc ở
Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) hay như vụ triển khai giàn khoan ở khu vực
Hoàng Sa năm ngoái. Thứ hai, về việc cải tạo, tôi cho rằng Trung Quốc sẽ không
dừng việc xây dựng trên các đảo cải tạo. Vậy thì Mỹ sẽ có phản ứng như thế nào
nếu như Trung Quốc không đáp ứng yêu cầu dừng các hoạt động xây dựng trên các đảo
đó và liệu Bộ Ngoại giao Mỹ có chia sẻ cùng lập trường với Bộ Quốc phòng không?
Trả lời: Cảm ơn câu hỏi của ông. Thực ra ông không phải hình dung về chính
sách của Mỹ vì nó được công khai rất rõ ràng. Đối với câu hỏi thứ nhất về sự
trung lập, tôi rất hân hạnh khi có dịp được làm rõ sự hiểu lầm trong quan điểm
của Trung Quốc về chính sách của Mỹ. Chúng tôi không hề trung lập khi vấn
đề có liên quan đến việc tuân thủ luật pháp quốc tế. Chúng tôi sẽ mạnh mẽ đứng
về phía luật pháp nhưng chúng tôi không đưa ra quan điểm gì đối với các yêu
sách chủ quyền. Điều đó có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là chúng tôi lo ngại về
các hành vi, về cách mà các bên đưa ra yêu sách - chúng tôi cho rằng nó phải dựa
trên luật pháp quốc tế, dựa trên các thực thể đất liền. Chúng tôi cũng quan tâm
đến cách thức các bên thúc đẩy yêu sách của mình, tức hành vi của các bên trong
việc thúc đẩy lợi ích và các yêu sách lãnh thổ của mình. Và điều mà chúng tôi
theo đuổi là sự can dự ngoại giao một cách hòa bình. Chúng tôi phản đối sự cưỡng
ép, đe dọa hay sử dụng vũ lực để thúc đẩy yêu sách. Vì vậy, có thể nói sự trung
lập của chúng tôi nằm ở chỗ giá trị của các yêu sách - chúng tôi không có quan
điểm và cũng không quan tâm liệu các thực thể thuộc về quốc gia nào và như thế
chúng tôi không đi ngược lại quyền lợi của bất kỳ bên nào. Nhưng điều chúng tôi
thực sự quan tâm là ổn định của khu vực, các nguyên tắc phổ quát về quyền tự do
hàng hải và hàng không, thương mại hợp pháp không bị cản trở v.v… Và chúng tôi
cũng đặc biệt quan tâm về quyền của một quốc gia được sử dụng các cơ chế hợp
pháp quốc tế như một phương tiện để bảo vệ quyền lợi của mình, tìm kiếm công lý
và giải quyết tranh chấp. Có một câu nói rất nổi tiếng của Voltaire rằng “Tôi
không đồng ý với những gì bạn nói nhưng tôi sẽ bảo vệ đến cùng quyền được nói của
bạn”. Mỹ không đứng về phía Philippines để chống Trung Quốc trong vụ kiện của họ
nhưng Mỹ sẽ bảo vệ quyền của Philippines hay bất kỳ quốc gia thành viên nào
khác của UNCLOS nhằm thực hiện các quyền của họ theo công ước, cũng giống như
cách Mỹ công nhận quyền lợi của mọi nước khác bao gồm Trung Quốc trong việc sử
dụng các cơ chế quốc tế chẳng hạn như cơ chế giải quyết tranh chấp trong Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), mặc dù điều đó có thể gây bất lợi cho Mỹ. Đó không
phải là thiên kiến mà là sự công bằng.
Câu hỏi thứ
hai của ông đã nêu lên một
vấn đề rất quan trọng. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như Trung Quốc vì lợi ích hòa
bình và ổn định của khu vực đồng ý cùng với các bên khác thực hiện một lệnh tạm
dừng các hoạt động cải tạo, nâng cấp hay quân sự hóa các đảo. Khi đó phản ứng của
Mỹ sẽ là gì? Tôi nghĩ có một vài bước đi khác nữa mà Trung Quốc có thể tiến
hành nhằm tạo ra một môi trường thuận lợi ở Mỹ, tạo ra sự tiến triển cho quan hệ
Mỹ-Trung. Tôi cho rằng các quan ngại do căng thẳng, tranh chấp và hành xử ở Biển
Đông đã gây ra rất nhiều lo lắng và nghi vấn cho các công dân Mỹ. Những nghi vấn
này sẽ được giải quyết một cách thuyết phục nếu Trung Quốc ở ngay trong vùng Biển
Đông nhạy cảm này thể hiện sự kiên nhẫn, kiềm chế, đánh giá chiến lược tốt hơn
và tạo ra không gian, thời gian cho việc đàm phán bộ quy tắc ứng xử mà chúng ta
mong muốn hoàn thành vào cuối năm nay. Và cuối cùng là hướng đến giải quyết dứt
điểm tranh chấp.
Hỏi (đại
biểu đến từ Tập đoàn Truyền thông Thượng Hải): Cách đây vài ngày, Đô đốc Swift đã tham dự tuần tra Biển Đông
trên máy bay P8-A Poseidon. Đây có vẻ là một bước đi leo thang căng thẳng ở khu
vực. Như vậy, theo ông, có phải thực sự Mỹ đang giảm nhiệt ở Biển Đông khi có một
chỉ huy thực hiện bay giám sát ở đây? Và như chúng ta đã biết Tổng thống Obama
vừa có cuộc điện đàm với Chủ tịch Tập Cận Bình, vậy công tác chuẩn bị đang được
tiến hành như thế nào cho cuộc viếng thăm sắp tới của ông Tập đến Mỹ?
Trả lời: Tôi đã làm việc tại Nhà Trắng và một nguyên tắc mà tôi học
được đó là mọi tin tức về Tổng thống, hãy để Nhà Trắng thông báo. Vì vậy, tôi sẽ
không tiết lộ thông tin gì về nội dung cuộc điện đàm giữa Tổng thống Obama và
Chủ tịch Tập cũng như các kế hoạch hay chi tiết hậu cần của chuyến thăm sắp tới.
Nhưng tôi có thể khẳng định rằng việc Tổng thống Obama duy trì tiếp xúc thường
xuyên với Chủ tịch Tập và Thủ tướng Lý thông qua điện đàm, các cuộc gặp chính
thức hay bên lề các hội nghị thể hiện sự coitrọng của chúng tôi đối với việc
duy trì các kênh đối thoại mở giữa hai bên. Với tư cách là người tham dự các cuộc
họp trên, tôi có thể nói rằng hai bên đã rất tích cực trong việc mở rộng các
lĩnh vực hợp tác thực chất và thu hẹp bất đồng. Điều này rất quan trọng. Một
trong những ví dụ là việc đạt được kế hoạch hành động chung toàn diện về Iran -
Trung Quốc là một thành viên rất tích cực trong cả việc đàm phán lẫn thực hiện.
Nhưng tôi biết Tổng thống Obama cũng đã nêu rất rõ quan ngại của mình đối với
Chủ tịch Tập và các quan chức cấp cao về tình hình ở Biển Đông, về căng thẳng
giữa Trung Quốc và nhiều nước láng giềng bởi điều này sẽ không mang lại lợi ích
cho bất kỳ bên nào, kể cả Mỹ. Chúng tôi muốn Trung Quốc cũng có mối quan hệ nồng
ấm và tốt đẹp với các nước Đông Nam Á như chúng tôi đang có hiện nay.
Về câu hỏi thứ
nhất của ông, Đô đốc
Swift vừa mới nhận nhiệm vụ chỉ huy lực lượng hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương.
Ông ấy đang tiến hành loạt chuyến thăm đầu tiên đến các nước đồng minh và đối
tác ở khu vực, vì vậy việc ông tham gia vào một chuyến bay tuần tra thường
xuyên là một bước đi hoàn toàn bình thường. Nó không hề đại diện cho một sáng
kiến chính sách nào cả. Tuy nhiên nó đại diện cho một nguyên tắc quan trọng mà
chúng tôi ủng hộ, đó là nguyên tắc về sự minh bạch. Tôi sẽ nói một cách rất đơn
giản: sử dụng máy bay do thám là tốt, còn dùng máy bay chiến đấu mới là xấu. Sự
minh bạch là một những thứ tốt nhất đối với chúng tôi, hiểu rõ và biết rõ mọi
chuyện đang diễn ra rất quan trọng đối với tất cả chúng ta. Chúng tôi khuyến
khích và sẵn sàng những chia sẻ những thông tin mà chúng tôi quan sát và thu thập
được một cách miễn phí. Sự minh bạch này nên là một thuộc tính của một khu vực
mở và hòa bình mà chúng ta muốn cùng sinh sống trong đó. Sự hiện diện của Hạm đội
7, của quân đội Mỹ ở Tây Thái Bình Dương là để gìn giữ hòa bình, đó là mục tiêu
của chúng tôi và là nhiệm vụ của Đô đốc Swift.
Hỏi (đại
biểu đến từ kênh truyền hình Đài Loan):
Cảm ơn ông về bài phát biểu về chính sách Mỹ ở Biển Đông. Về vấn đề cải tạo đảo,
ông phản ứng như thế nào với một số lập luận của Trung Quốc cho rằng Mỹ không
phải đang quan tâm đến vấn đề luật lệ, mà chủ yếu là vấn đề ai đang làm, quy mô
và tốc độ của việc cải tạo. Bởi Trung Quốc cho rằng các bên khác đã tiến hành
việc cải tạo nhiều năm trước đây như Mỹ im lặng, nhưng đến khi Trung Quốc thực
hiện việc này thì Mỹ lại lên tiếng phản đối. Liệu quan điểm này có đúng không?
Trả lời: Câu trả lời đơn giản đó là có một loạt các yếu tố khiến
cho những hoạt động của Trung Quốc trong vòng 14 tháng qua trở nên rất khác biệt.
Thứ nhất là riêng quy môcủa việc cải tạo đã quá lớn, hơn 2000 mẫu Anh (acres) đất
được bồi đắp ở Trường Sa. Thứ hai là tốc độ: trong vòng gần hai thập
kỷ Việt Nam, có thể là Philippines và Malaysia chỉ cải tạo khoảng 5-10 mẫu.
Trong khi đó, chỉ hơn một năm, Trung Quốc đã cải tạo một diện tích gấp 20-30 lần.
Đây là hoạt động cải tạo với quy mô và tốc độ đáng kinh ngạc. Thứ ba là vấn đề
năng lực. Tôi sẽ không nhận định về năng lực của Việt Nam hay Philippines nhưng
rõ ràng so với Trung Quốc thì họ kém xa trong khả năng triển khai sức mạnh quân
sự. Thứ tư là sự khác nhau về ý định. Rất nhiều quốc gia trong khu vực lo
ngại về ý định của Trung Quốc. Họ nhìn lại, chỉ ra các sự kiện đã xảy ra như
xung đột hay trả đũa bao gồm trả đũa bằng kinh tế và tự hỏi điều gì sẽ xảy ra.
Đây là những yếu tố khiến khu vực và dĩ nhiên là nước Mỹ phải cân nhắc. Rõ ràng
là hoạt động của Trung Quốc khác hẳn so với các bên yêu sách khác ở Đông Nam Á.
Mặc dù như vậy, chúng tôi không phải đang thúc đẩy một hướng đi gây bất lợi cho
Trung Quốc vì như tôi đã nhiều lần khẳng định, chúng tôi không có quan điểm về
tranh chấp chủ quyền. Chúng tôi không nói rằng Trung Quốc không có yêu sách mạnh
đối với một số thực thể ở Trường Sa hay Biển Đông. Thay vào đó, chúng tôi cho rằng
vì lợi ích giải quyết hòa bình tranh chấp và tránh rủi ro, tất cả các bên tranh
chấp chứ không riêng gì Trung Quốc, trong bối cảnh hiện nay, cần suy nghĩ lại,
cần dừng các hoạt động cải tạo và các kế hoạch quân sự hóa các điểm chiếm đóng. Dù
cho có đắp đất cao đến đâu đi nữa thì những hoạt động này cũng không mang lại
chủ quyền cho bất cứ bên nào. Những hoạt động này không làm lợi thêm cho yêu
sách chủ quyền của Trung Quốc dưới góc độ luật pháp quốc tế. Nhưng triển vọng sử
dụng các đảo nhân tạo này làm cơ sở cho việc triển khai sức mạnh quân sự - điều
khiến các nước khu vực đang lo lắng - là một vấn đề đáng quan ngại. Cho nên vấn
đề chính vẫn là cách hành xử và chúng tôi cho rằng giải pháp duy nhất là việc
kiềm chế dưới hình thức là một lệnh dừng hoàn toàn các hoạt động cải tạo bởi tất
cả các bên chứ không riêng gì Trung Quốc.
=>Xem Video bài phát biểu tại đây.
/(Nghiên cứu Biển Đông)
------------
Việt nam học lấy bài phái biểu mạnh mẻ và cách trả lời sắc bén ấn tượng xoáy vào trọng tâm câu hỏi của Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Daniel Russel
Trả lờiXóaRất phải tiếc cho Việt Nam. Không có được tình trạng "Thượng minh bạch, hạ thanh bình" như Hoa Kỳ.
Trả lờiXóaNgười Mỹ!
Trả lờiXóa1. Đúng là Tư Duy Mỹ. Người Mỹ, công dân Mỹ là những người đã trưởng thành. Những "con" đã thành "người" nên tư duy và hành xử rất là Người-Người Lớn, vì một trật tự luật lệ và luật pháp quốc tế, hòa bình và phát triển. Dân tộc và Quốc gia đã trưởng thành về nhân cách và trí tuệ thường có cách hành xử theo qui định luật pháp chung; không ứng xử theo lối luật rừng. Mỹ khác Tàu Cộng ở tư duy và tầm nhìn đó! Luật lệ và pháp luật quốc tế; không lèm nhèm "cùng ý thức hệ cộng sản" mà lấn chiếm đất đai và biển đảo như bản chất "chó sói" Tàu Cộng.
2. Ông Trợ lý Ngoại trưởng Russel khẳng định "đối với Mỹ, vấn đề không phải là các đảo đá và bãi cạn ở Biển Đông hay là các nguồn tài nguyên trong vùng biển này, mà vấn đề chính là các luật lệ. Mỹ không hề trung lập khi vấn đề có liên quan đến việc tuân thủ luật pháp quốc tế và sẽ mạnh mẽ đứng về phía luật pháp".
3. Vì thế, cho dù Tàu Công với bản tính tham lam, "chó sói" hoang dã, với những lãnh đạo "con" chưa thành "người" có chiếm và bồi đắp các đảo ngầm cao bao nhiêu thì cũng không bao giờ có được chủ quyền. Thế mới rõ mặt Tàu Cộng kém xa về tư duy, tầm nhìn và trí tuệ của những Thống đốc các bang của Mỹ. Vì thế, Thống đốc bang có thể ứng cử Tổng thống và thành Tổng thống gắn kết vơi cư dân và làm lợi cho cư dân bầu ra mình. Ngược lại xã hội Tàu Cộng (VN cũng rứa) làm quan to và càng lên cao thì xa dân và phản lại ý nguyên của dân; chỉ chăm chút vun vén cho lợi ích nhóm thân hữu thân mình.
4. Đọc bài Ông trợ lý Ngoại trưởng phát biểu tại Diễn đàn Biển, lại nhớ tới Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch và Thứ trưởng Trần Quang Cơ....Bao giờ mới lại xuất hiện các nhà ngoại giao tầm cỡ và đẳng cấp như xưa ? Muốn thế, Người Việt phải thật Trưởng Thành!
Ngẫm thấy đau buồn với câu nói của Cụ Tản Đà nói khoảng những năm 40 của thế kỷ XX:
"Dân 20 triệu ai Người Lớn
"Nước 4000 năm vẫn Trẻ Con"
Người Việt hình như cũng giống như người Tàu "Con" chưa thành "người". Nên tham lam và ích kỷ, nhỏ mọn; luôn chiếm của người thành của mình!
Các cụ ngẫm xem!