Ngày 04 tháng 02 năm 2016, Hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP) đã được ký kết giữa 12 nước, gồm Úc, Brunei, Canada,
Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt
Nam, có quy mô kinh tế chiếm 40% GDP và 30% thương mại toàn cầu. Đây là một Hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới – được kỳ vọng trở thành hình mẫu cho phát
triển thương mại khu vực và thế giới với yêu cầu cao hơn trong bối cảnh lực
lượng sản xuất phát triển rất nhanh và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Việc nước ta ký Hiệp định TPP không chỉ là kết quả của
quá trình 5 năm kiên trì đàm phán với tinh thần vừa hợp tác vừa đấu tranh, lấy
lợi ích quốc gia dân tộc làm mục tiêu cao nhất. Sâu xa hơn, đây là thành quả
của tiến trình 30 năm đổi mới, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung
quan trọng, ngày càng được khẳng định mạnh mẽ và kiến giải sâu sắc qua các Nghị
quyết của Đảng. Đây còn là những trải nghiệm rút ra từ thực tiễn hội nhập của
nước ta sau khi ký kết và thực thi Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, tham
gia Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN, các Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN với
các đối tác và gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)… Hội nhập kinh tế
quốc tế còn là một nội hàm quan trọng trong thể chế kinh tế thị trường hiện đại
định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
I
Thực hiện chủ trương tích cực và chủ động hội nhập
quốc tế, trong các nhiệm kỳ Đại hội X và XI, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã
chấp thuận đề nghị của Chính phủ về đàm phán tham gia một số Hiệp định Thương
mại tự do mới. Đây là những Hiệp định có mức độ cam kết mở cửa thị trường cao hơn
cam kết trong WTO và các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký trước đây. Đặc
biệt, TPP và FTA với EU là những Hiệp định toàn diện, cân bằng lợi ích, với
những cam kết mở cửa thị trường sâu rộng cả về thương mại hàng hóa, dịch vụ,
đầu tư, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở mức cao và những cam kết về thể chế kinh
tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm công… nhằm tạo ra một môi trường
kinh doanh minh bạch và cạnh tranh công bằng. Các Hiệp định này còn bao gồm các
nội dung tuy không phải là thương mại trực tiếp nhưng có liên quan đến thương
mại như môi trường và lao động. Với những nội hàm chủ yếu nêu trên, TPP cùng
với FTA Việt Nam-EU được gọi là Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
TPP là Hiệp định tiếp cận thị trường toàn diện, bảo
đảm sự dịch chuyển tự do ở mức độ cao hơn của hàng hóa, dịch vụ, vốn và công nghệ
thông qua việc cam kết loại bỏ nhanh thuế xuất khẩu, nhập khẩu và rào cản phi quan
thuế; tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, không phân biệt đối xử; tạo
thuận lợi cho thương mại và đầu tư, qua đó đem lại lợi ích nhiều hơn cho sản
xuất kinh doanh, người lao động cũng như người tiêu dùng.
TPP sẽ thúc đẩy hình thành mạng sản xuất và chuỗi cung
ứng mới trong thị trường 12 nước thành viên; tạo điều kiện để phát triển mạnh
thương mại nội khối; nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, hỗ trợ mục
tiêu tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của người dân; góp phần
giải quyết những thách thức trong nền kinh tế đương đại, khuyến khích đổi mới,
sáng tạo, phát triển nền kinh tế số, xây dựng chính sách cạnh tranh và quy tắc
hoạt động của doanh nghiệp nhà nước cũng như bảo vệ các quyền cơ bản của người
lao động và bảo vệ môi trường. Hiệp định còn có các quy định bảo đảm cơ hội để
các nền kinh tế thành viên có trình độ phát triển khác nhau và doanh nghiệp
thuộc mọi quy mô đều có thể được hưởng lợi; giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa vượt
qua thách thức, tận dụng cơ hội để phát triển. TPP cũng bao gồm các cam kết về
hỗ trợ kỹ thuật, nâng cao năng lực và có sự linh hoạt về lộ trình thực thi, phù
hợp với sự khác biệt về trình độ phát triển để các bên có khả năng đáp ứng cam
kết và tận dụng đầy đủ lợi ích của Hiệp định. Đồng thời, quy định cơ chế giám
sát thực thi và chế tài xử lý các vi phạm.
TPP tôn trọng thể chế chính trị của mỗi nước; thừa
nhận yêu cầu phải tuân thủ đầy đủ pháp luật quốc gia, phù hợp với các cam kết
quốc tế và không bao gồm các nội dung liên quan đến quốc phòng, an ninh. Hiệp
định cũng được kỳ vọng là tạo ra một nền tảng mới cho hội nhập kinh tế khu vực
và tạo cơ hội cho các quốc gia khác trên vành đai châu Á-Thái Bình Dương tham
gia.
Trong điều kiện trình độ phát triển của nền kinh tế
còn thấp và còn nhiều khó khăn, việc chủ động quyết định tham gia các Hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới, đặc biệt là TPP với tinh thần sẵn sàng chấp nhận cạnh
tranh, nỗ lực vượt qua thách thức, tranh thủ cơ hội để vươn lên phát triển
nhanh và bền vững, thể hiện bản lĩnh chính trị, tư duy sắc bén và tầm nhìn thời
đại của Đảng và Nhà nước ta. Đây còn là sự khẳng định niềm tin vào ý chí, khả
năng và sức mạnh của con người Việt Nam,
của dân tộc Việt Nam.
II
TPP cùng FTA với EU sẽ mang lại nhiều cơ hội thuận lợi
nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn thách thức đối với nước ta.
Các Hiệp định này sẽ tạo thêm xung lực mới cho phát
triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là trong thu hút đầu tư và thúc đẩy xuất khẩu
với các nền kinh tế lớn nhất thế giới, trong đó EU gồm 28 thành viên với GDP
trên 18 nghìn tỷ USD và TPP hiện có 12 thành viên với GDP trên 20 nghìn tỷ USD.
Đây là những khu vực có công nghệ nguồn, thị trường xuất khẩu và thu hút đầu tư
lớn nhất của Việt Nam
liên tục trong nhiều năm qua. Nếu tính đến tác động cộng hưởng của các Hiệp
định này với các FTA đã ký hoặc đang đàm phán, cơ hội còn lớn hơn nhiều vì nước
ta sẽ có quan hệ thương mại tự do với 55 quốc gia, trong đó có 15 nước thuộc
nhóm G20.
Xuất khẩu và đầu tư có vai trò quyết định cho tăng
trưởng kinh tế, tạo việc làm, nâng cao đời sống dân cư, nhất là trong điều kiện
thu nhập bình quân đầu người và tiêu dùng nội địa của nước ta còn thấp. Tăng tỷ
trọng xuất nhập khẩu với các thị trường này cũng làm cho quan hệ thương mại với
các nước cân bằng hơn. Những cam kết trong các Hiệp định là những khung khổ,
chuẩn mực để góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường hiện đại và thúc
đẩy tiến trình tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Tham gia các Hiệp
định này còn là một bước tiến mới trong thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế, nhất là tại một khu vực đang diễn ra cạnh tranh chiến
lược ngày càng gay gắt.
Cùng với những cơ hội thuận lợi, các Hiệp định này
cũng đặt ra những khó khăn thách thức không nhỏ. Đó là, cạnh tranh sẽ diễn ra
quyết liệt không chỉ ở thị trường các nước tham gia Hiệp định mà ngay tại thị trường
trong nước trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia – đặc biệt là
cạnh tranh về chất lượng thể chế và môi trường kinh doanh. Trước sức ép cạnh
tranh, một số doanh nghiệp sau thời gian chuyển đổi, tái cơ cấu nếu không vươn
lên được có thể phải giải thể hoặc phá sản, một bộ phận người lao động sẽ mất
việc làm; khu vực nông nghiệp và nông dân dễ bị tổn thương; khoảng cách giàu
nghèo sẽ bị doãng ra nếu chúng ta không thực hiện hiệu quả chiến lược phát
triển nhanh, bền vững và bảo đảm cho mọi người dân đều được hưởng thành quả của
tăng trưởng. Thách thức về thực thi cũng rất lớn, từ hoàn thiện hệ thống pháp
luật đến đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực cán bộ, công chức, chuyên
gia kỹ thuật và pháp lý. Nội dung về lao động-công đoàn cũng đặt ra những thách
thức và yêu cầu mới trong hoạt động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và
cả hệ thống chính trị của nước ta.
Cần nhận thức sâu sắc rằng, cơ hội thuận lợi tự nó
không chuyển thành sức mạnh kinh tế, lợi ích và khả năng cạnh tranh trên thị
trường mà phải thông qua sự nỗ lực và hiệu quả hoạt động hướng đích của các chủ
thể – Nhà nước, người dân và doanh nghiệp. Khó khăn thách thức sẽ là sức ép không
nhỏ nhưng mức độ ảnh hưởng đến đâu phụ thuộc vào năng lực ứng phó của từng chủ
thể. Nếu tận dụng tốt cơ hội thuận lợi sẽ đẩy lùi được khó khăn thách thức, tạo
ra cơ hội thuận lợi mới lớn hơn; ngược lại, khó khăn thách thức sẽ lấn át,
chúng ta sẽ bị thua thiệt và rất khó khắc phục. Điều cần nhấn mạnh là, trong
các Hiệp định thương mại tự do, cơ hội luôn đi liền với thách thức và trong
thách thức luôn ẩn chứa cơ hội – đây cũng là biện chứng của tiến trình phát
triển.
III
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng, với việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN, tham gia các Hiệp
định FTA mới, nhất là các Hiệp định thế hệ mới – TPP và FTA với EU; và trong
điều kiện công nghệ thông tin, Internet phát triển bùng nổ, các giao dịch xuyên
biên giới ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong thương mại, dịch vụ toàn cầu; cùng
với những tiến bộ trong vận tải đa phương thức và dịch vụ logistics, ranh giới
giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoài gần như bị san phẳng. Hệ
quả là, các mô hình công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu hoặc hướng về xuất khẩu
không còn nguyên ý nghĩa kinh điển của nó. Nhiều quốc gia chuyển sang mô hình
công nghiệp hóa dựa trên sức cạnh tranh, khai thác và tạo lập lợi thế so sánh,
chuyển lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh, tham gia vào mạng sản xuất và
chuỗi giá trị toàn cầu; đồng thời phấn đấu chiếm lĩnh các công đoạn có giá trị
gia tăng cao trong chuỗi giá trị đó.
Để tận dụng cơ hội thuận lợi, vượt qua khó khăn thách
thức, yêu cầu cấp bách hiện nay là phải nâng cao năng lực cạnh tranh của cả nền
kinh tế. Trong đó, cần xác định rõ vai trò và hành động của các chủ thể trong thực
thi nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định này.
Doanh nghiệp là chủ thể quyết định sức cạnh tranh vi
mô, phản ảnh sức mạnh và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Doanh nghiệp phải
dũng cảm chấp nhận cạnh tranh và phải chủ động, sáng tạo thực hiện đồng bộ,
quyết liệt các giải pháp để không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch
vụ do mình cung ứng, với tư duy không chỉ giới hạn tại thị trường trong nước mà
còn vươn ra khu vực và thế giới. Tuy vậy, doanh nghiệp không thể tự mình quyết
định được tất cả. Doanh nghiệp phải hành động trong khung khổ thể chế và môi
trường kinh doanh xác định. Điều này lại hoàn toàn phụ thuộc vào Nhà nước.
Nhiều nghiên cứu và từ thực tiễn các nước đều khẳng
định rằng, thể chế quản trị quốc gia là yếu tố quyết định nhất đến sức cạnh
tranh vĩ mô và sự phát triển của một nền kinh tế. Phát triển nhanh và bền vững
hay trì trệ, tụt hậu chủ yếu là do chất lượng thể chế. Thể chế tốt, bảo đảm nhà
nước pháp quyền, quyền dân chủ của người dân và phù hợp với kinh tế thị trường
hiện đại sẽ khơi dậy được cao nhất sức mạnh tổng hợp và các nguồn lực cho sự
phát triển. Và như vậy, thể chế có vai trò quyết định đến hiệu quả và khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để có một thể chế tốt, chất lượng cao, phải xác định
đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường, doanh nghiệp và xã hội. Nhà
nước phải thực hiện tốt chức năng kiến tạo phát triển, nhất là ổn định kinh tế
vĩ mô; xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch và tổ chức
bộ máy quản lý để tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, bảo đảm
quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh công bằng; sử dụng nguồn lực của Nhà nước,
các chính sách và công cụ điều tiết để phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ
công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và đời sống
người dân; bảo vệ môi trường; bảo đảm các dịch vụ công thiết yếu, phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, đào tạo nguồn nhân lực và tăng cường tiềm
lực quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thị
trường quyết định việc huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực. Doanh
nghiệp được tự quyết định kinh doanh trên các lĩnh vực mà luật pháp không cấm
đồng thời phải đề cao trách nhiệm xã hội và văn hóa kinh doanh. Xã hội – thông
qua người dân và các Tổ chức, các Hội nghề nghiệp đại diện cho mình và các chuyên
gia, các nhà nghiên cứu độc lập để đóng góp xây dựng, phản biện và giám sát
thực thi chính sách, nhằm hạn chế các khiếm khuyết của thị trường và Nhà nước.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn các mối quan hệ trên
đây, chúng ta phải khẩn trương tiếp tục hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật
đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế và cam kết
trong các Hiệp định FTA, nhất là các FTA thế hệ mới với tinh thần đổi mới toàn diện,
đồng bộ cả kinh tế và chính trị. Tập trung mọi nỗ lực xây dựng, hoàn thiện nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và thượng tôn pháp luật. Công dân được
làm những gì mà pháp luật không cấm. Cán bộ công chức chỉ được làm và phải làm
những việc theo quy định của pháp luật.
Tiếp tục cải cách bảo đảm sự tương thích, đồng bộ giữa
luật pháp, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ công chức. Tổ chức trùng lắp, chồng
chéo sẽ gây lãng phí nguồn lực và cản trở sự phát triển. Phải dám chấp nhận đổi
mới, vượt qua sức ỳ, sự bảo thủ để hoàn thiện hệ thống tổ chức lãnh đạo quản
lý, nâng cao năng lực quản trị quốc gia, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong giai đoạn phát triển mới.
Đặt
việc cải thiện môi trường kinh doanh trong yêu cầu cải cách thể chế. Thể chế
tạo ra khung khổ, định ra giới hạn cho cải thiện môi trường kinh doanh. Không
thể có môi trường kinh doanh tốt nếu không có thể chế phù hợp. Những tiến bộ
trong cải cách thể chế phải được chuyển hóa đầy đủ sang cải thiện môi trường
kinh doanh. Điều này không chỉ liên quan đến tổ chức bộ máy mà còn gắn chặt với
chất lượng đội ngũ cán bộ công chức. Phải tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ
công chức có phẩm chất và năng lực, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Đặc biệt
quan tâm đào tạo một đội ngũ cán bộ pháp lý, các nhà quản trị doanh nghiệp đáp
ứng yêu cầu hội nhập, cạnh tranh và phát triển.
Chỉ trên nền tảng đổi mới thể chế quản trị quốc gia
phù hợp mới có thể nâng cao chất lượng, hiệu quả của tiến trình tái cơ cấu,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đẩy nhanh áp dụng khoa học công nghệ, tăng năng
suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả
nền kinh tế. Cũng chỉ trên cơ sở đổi mới thể chế phù hợp mới tạo điều kiện cho
quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất, hình thành những vùng sản xuất hàng hóa
lớn và một nền nông nghiệp sạch, có giá trị gia tăng cao, ổn định nguồn cung để
có thể tăng nhanh thị phần trên thị trường thế giới. Nếu không, sẽ không tận
dụng được cơ hội thuận lợi do TPP, FTA với EU và các FTA mới mang lại.
TPP cũng như FTA với EU yêu cầu doanh nghiệp nhà nước
phải công khai, minh bạch hoạt động và cạnh tranh công bằng với doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác. Phải đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu, nâng
cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước đồng thời khuyến khích phát triển mạnh
doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp tư nhân làm động lực nâng cao sức
cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế.
Để bảo đảm thành công trong hội nhập quốc tế và thực
hiện hiệu quả các FTA, đặc biệt là TPP và FTA Việt Nam - EU, trước hết phải có
Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chương trình hành động cụ thể của Chính phủ,
các cấp các ngành và của cộng đồng doanh nghiệp. Phải làm tốt công tác thông tin
truyền thông, tạo sự đồng thuận trong nhận thức, thống nhất trong hành động, nỗ
lực nâng cao năng lực cạnh tranh, đưa nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và
bền vững.
*
*
*
Chúng ta đang sống trong một thời đại vận động và phát
triển rất nhanh, thế giới đang bước vào làn sóng công nghiệp lần thứ tư, tiến
trình công nghiệp hóa ngày càng được rút ngắn. Nếu có quyết tâm cao và ý chí
vươn lên mạnh mẽ, tinh thần sáng tạo và chiến lược tăng trưởng đúng đắn, nước đi
sau có thể đuổi kịp và vượt quốc gia đã có trình độ phát triển cao hơn và những
doanh nghiệp mới, quy mô nhỏ có thể nhanh chóng trở thành những doanh nghiệp
lớn.
Tham gia các Hiệp định này, Việt Nam còn có thêm
cơ hội nâng cao hiệu quả kinh tế nhờ tăng quy mô, tạo điều kiện hình thành
những doanh nghiệp lớn đồng thời với xu thế cá thể hóa doanh nghiệp. Đây cũng
là cơ hội để nuôi dưỡng tinh thần đổi mới, sáng tạo, khuyến khích phong trào khởi
nghiệp của mọi người dân và nâng tầm trình độ phát triển của nền kinh tế.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cộng đồng doanh
nghiệp chúng ta hãy nêu cao niềm tự hào dân tộc, chung sức đồng lòng, chủ động
khai thác và phát huy tốt nhất cơ hội thuận lợi, nỗ lực vượt qua khó khăn thách
thức trong hội nhập, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, tiến cùng thời
đại, sánh vai với các cường quốc năm châu như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu
hằng mong muốn.
(chinhphu.vn)
-------------
Khi gia nhập WTO cũng thấy hô hào lợi ích về thuế, xuất khẩu nhưng "lợi bất cập hại. Bây giờ quảng bá TPP là thoát Trung va lợi nhất cho dệt may, gia giầy nhưng VN lại nhập nguyên liệu phàn lớn của Tầu, tâm lý ỷ lại của doanh nghiệp và hệ thống cồng kềnh suốt đời chỉ làm thuê mà thôi
Trả lờiXóaTrích "Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, cơ hội và thách thức", có dám xóa bỏ điều 4 hến pháp?
Trả lờiXóa"Lói chun chun" ý mà. Kiểu nói của nãnh đạo.
XóaKiến trúc sư, nhà biếm họa tài ba Lý Trực Dũng gây sốc khi ông khẳng định: “Kinh tế Việt Nam sập nếu không có xe máy 1 tuần”. Ý kiến này cũng được mạng xã hội dẫn lại và bình luận khá sôi nổi một vài ngày gần đây.
Trả lờiXóamỗi ngày, bán xăng cho người đi xe máy thì nhà nước csVN thu lãi 400 tỷ đồng, nếu không bán xăng thì lấy đâu ra tiền khủng mà treo khẩu hiệu đỏ lòm các ngõ ngách, lấy đâu ra rượu tây uống như nước lã và xe ô tô xịn hàng chục hàng trăm tỷ bóng láng, biệt thự hoành tráng cho các quan cs ở?
Lý Trực Dũng ngớ ngẩn!
XóaNhà văn Nguyễn Huy Thiệp 30 năm trước đã cảnh báo: "Xe máy (nhiều) sẽ giết chết VN!"
Xe máy (2 bánh) đang hình thành lối sống rất lộn xộn cho dân Việt - vi phạm luật (đi bậy), ích kỷ (tranh giành đường, không nhường nhịn), vô trách nhiệm (gây tai nạn liền bỏ trốn).
Có tới 2 năm nữa để các bên quyết định cuối cùng về TPP. 2 năm nửa mới sẽ khẳng định ai được vào TPP.
Trả lờiXóaXuất quân: 1) Mỹ vô pháo đầu (tự do HH), Tàu nhảy ngựa (AIIB); 2) Mỹ dí chốt (cho ký TPP); Tàu dạt pháo (con đường tơ lụa);...
Trả lờiXóaTóm lại, đây cũng là ván cờ mới vô cuộc tiếp theo các ván trước (hiệp định Gieneve, hiệp định Paris về CPC) mà kết cục lại VN chỉ là một quân cờ mà thôi!
Nặc danh16:53 Ngày 15 tháng 02 năm 2016 nói chí phải. Cảm ơn bạn về có cách nhìn thấu đáo !
Trả lờiXóaVN vào TPP thì chẳng hay gì ngoài việc làm lợi, làm giàu cho TQ. Đó là sự thật khách quan và rất đáng buồn
Nặc danh16:53 Ngày 15 tháng 02 năm 2016 nói chí phải. Cảm ơn bạn về có cách nhìn thấu đáo !
Trả lờiXóaVN vào TPP thì chẳng hay gì ngoài việc làm lợi, làm giàu cho TQ. Đó là sự thật khách quan và rất đáng buồn