Có ba trường phái giữa các nhà phân tích Trung Quốc
quanh vấn đề tối ưu hóa các chính sách ở khu vực: hiện thực, cứng rắn và ôn
hòa. Các ấn bản học thuật của Trung Quốc, báo cáo truyền thông và các quan điểm
trên mạng đang tập trung vào ba luận điểm này. Ba trường phái này biểu hiện sự
đa dạng trong quan điểm nội bộ của Trung Quốc.
Bắc Kinh chưa chắc chắn về điều mình muốn ở Biển Đông,
một hoài nghi nhỏ về căng thẳng trong khu vực đang dần lan ra. Với phán quyết
của Tòa án Quốc tế về vụ kiện của
Các nhà lãnh đạo của Trung Quốc, từ Chủ tịch Tập Cận
Bình, Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị, đến Đô đốc Tôn Kiến Quốc, Phó Tổng tham
mưu trưởng Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc lặp đi lặp lại luận điểm các đảo
trên Biển Đông luôn là một phần của Trung Quốc, các hành động làm hợp pháp hóa
là để bảo vệ an toàn chủ quyền của Trung Quốc, việc triển khai quân sự trên các
đảo bồi đắp chỉ nhằm mục đích phòng thủ. Tuy nhiên, một vài nước ASEAN đã chỉ
ra luận điểm của Trung Quốc là không thuyết phục và họ cảm thấy bị đe dọa từ
các công trình bồi đắp của Trung Quốc, muốn Mỹ can thiệp, kiềm chế sức mạnh của
Trung Quốc. Một số quan chức Mỹ cũng đã lên án việc Trung Quốc cố tình quân sự
hóa trong khu vực.
Có ba trường phái giữa các nhà phân tích Trung Quốc
quanh vấn đề tối ưu hóa các chính sách ở khu vực: ta có thể gọi là trường phái
hiện thực, cứng rắn và ôn hòa. Các ấn bản học thuật của Trung Quốc, báo cáo
truyền thông và các quan điểm trên mạng đang tập trung vào ba luận điểm này. Ba
trường phái này biểu hiện sự đa dạng trong quan điểm nội bộ của Trung Quốc.
Các nhà chủ nghĩa hiện thực của Trung Quốc tin rằng
nền tảng trong chính sách Biển Đông của Trung Quốc là chắc chắn và không cần có
sự điều chỉnh. Họ thừa nhận rằng những đánh đổi về mặt ngoại giao và hình ảnh
của Trung Quốc là khá lớn nhưng họ có xu hướng làm nhẹ vấn đề này đi vì họ đánh
giá khả năng và tiềm lực quân sự của Trung Quốc quan trọng hơn hình ảnh của
Trung Quốc ở bên ngoài. Niềm tin của họ dựa trên cơ sở những nhìn nhận của chủ
nghĩa hiện thực về chính trị quốc tế là sức mạnh quân sự và những nhân tố không
phải là nhất thời (không phải trường hợp nào cũng có thể đong đếm được) như
hình ảnh, vị thế hay luật pháp quốc tế - vốn là những nhân tố then chốt trong
chính trị quốc tế. Do vậy, họ nghĩ rằng thời gian là do Trung Quốc quyết định
miễn là Trung Quốc có thể kiểm soát được sự trỗi dậy của mình. Những nhận thức
trên đang chi phối quá trình hoạch định chính sách của Trung Quốc trên Biển
Đông.
Các nhà hiện thực nghĩ rằng họ đang bảo vệ lợi ích
quốc gia của Trung Quốc thông qua việc tăng cường sự hiện diện quân sự trên
Biển Đông. Nhưng họ cũng không chắc chắn về những hòn đảo nhân tạo mới xây
dựng. Liệu Trung Quốc đang thúc đẩy việc lắp đặt các thiết bị quân sự bao gồm
cả những vũ khí tấn công hay chỉ là những vũ khí nhằm tự vệ đủ để duy trì
nguyên hiện trạng hiện nay? Các nhà hiện thực muốn tăng cường sức mạnh của
Trung Quốc trên Biển Đông, nhưng họ vẫn chưa chắc chắn bao nhiêu sức mạnh là đủ.
Một trường phái khác - những người thuộc phe cứng rắn
- đã đưa ra những câu trả lời đáng báo động cho các câu hỏi mà những nhà hiện
thực chưa thể trả lời được. Không chỉ cho rằng Trung Quốc nên hiện diện ở bảy
đảo mới được xây dựng bên cạnh các thực thể đã có, gồm đá Chữ Thập, đá Subi, và
đá Vành khăn, như một “sự đã rồi” đối với thế giới bên ngoài, những người cứng
rắn còn cho rằng Trung Quốc nên mở rộng sự hiện diện về quân sự và lãnh thổ tại
Biển Đông. Sự mở rộng như vậy có thể bao gồm các hoạt động như: xây dựng các
đảo thành các căn cứ nhỏ, chiếm một số đảo nếu không phải tất cả các thực thể
thuộc các đảo này nằm dưới sự kiểm soát của nước khác, hoặc biến bản đồ “Đường
chín đoạn” thành các đường phân giới lãnh thổ cụ thể, qua đó tuyên bố chủ quyền
với phần lớn lãnh thổ Biển Đông.
Những người thuộc phe cứng rắn không hề quan tâm đến
các quan ngại và lo âu của thế giới bên ngoài; họ chỉ muốn tối đa hóa lợi ích
quốc gia của Trung Quốc.
Rõ ràng là một số báo cáo của các phương tiện truyền
thông quốc tế về việc Trung Quốc đòi chủ quyền với 90% Biển Đông đang thực sự
mô tả điều này - một trường phái tư tưởng bên trong Trung Quốc. Tin tốt là quan
điểm này (quan điểm cứng rắn) vẫn chưa chiếm đa số trong ở các cấp hoạch định
chính sách cao. Đường lối cứng rắn trong Chính phủ thường được thấy trong các
cơ quan quân sự và thực thi pháp luật. Chính sách nhằm tối đa hóa lợi ích tại
Biển Đông chắc chắn sẽ phục vụ lợi ích quan liêu của họ. Nhưng đường lối cứng
rắn cũng có thể thấy được trong công chúng Trung Quốc - phần lớn trong số họ
chỉ có một cái nhìn hời hợt và ấn tượng về tình hình Biển Đông. Vốn kêu gọi
Trung Quốc quyết đoán, những người theo đường lối cứng rắn ở cấp cơ sở đang dựa
trên xúc cảm của chủ nghĩa dân tộc, không phải trên các lợi ích của Trung Quốc.
Người thuộc phe cứng rắn khác với những người theo
thuyết hiện thực ở chỗ, trong khi quan điểm của những người cứng rắn dựa trên
ngoại giao thực dụng được bổ sung bởi chủ nghĩa siêu dân tộc. Điều này làm cho
việc quan hệ với các nước khác đặc biệt khó khăn. Dù hiện những người cứng rắn
không chi phối chính sách, giới lãnh đạo cũng không dễ dàng lờ đi hoặc bỏ qua
các quan điểm của họ vì sợ sẽ làm tích lũy chủ nghĩa dân tộc, một lực lượng ở
cấp cơ sở đó có thể dễ dàng bị mất kiểm soát.
Nhóm thứ ba, những người ôn hòa, tin rằng giờ là thời
gian để Trung Quốc điều chỉnh chính sách để dần làm rõ các mục tiêu ở Biển
Đông. Những người ôn hòa nhận ra rằng sự mơ hồ hiện nay của Bắc Kinh về chủ quyền
lãnh thổ và chiến lược làm gia tăng cảm giác sợ hãi và ngờ vực của thế giới bên
ngoài. Họ đổ lỗi cho Chính phủ về việc không diễn giải về các mục tiêu chiến
lược và không thúc đẩy giao tiếp hiệu quả với thế giới bên ngoài.
Cách tiếp cận “cứ làm đi” của Trung Quốc trong các
quyết định chiến lược quan trọng như xây dựng đảo thực ra lại có hại cho lợi
ích của Bắc Kinh. Bằng việc lờ đi các nỗ lực hợp pháp hóa việc xây dựng đảo,
Trung Quốc đã khiến cho cộng đồng quốc tế nghi ngờ chứ không phải cảm thông cho
các hành động của mình.
Những người ôn hòa cho rằng Trung Quốc cần phải làm rõ
“đường lưỡi bò”. Mơ hồ trong việc phân định sẽ làm cho bản đồ trở thành gánh
nặng lịch sử và là một trở ngại không cần thiết để đạt một thỏa hiệp ngoại
giao. Theo quan điểm của họ, sẽ là phản tác dụng nếu coi bản đồ như là một
đường phân định ranh giới lãnh hải, bởi vì làm như vậy sẽ khiến Trung Quốc trở
thành một kẻ thù của hầu hết các quốc gia Đông Nam Á cũng như Mỹ. Nếu Trung
Quốc đi theo con đường này thì họ cho rằng Trung Quốc cuối cùng sẽ đối mặt với
những nguy hiểm từ chiến lược này. Theo các nhà quan sát ôn hòa, vấn đề lớn
nhất đối với Trung Quốc là nó thiếu một chiến lược rõ ràng và hiệu quả đối với
Biển Đông.
Những người ôn hòa có cách nhìn nhận khác với các nhà
hiện thực và bảo thủ. Nhưng cả ba đều nhấn mạnh đến điểm quan trọng: sự cần
thiết của việc bồi đắp các đảo. Trong cuộc trò chuyện sâu rộng của tôi với các
học giả Trung Quốc cũng như các quan chức Chính phủ năm ngoái, tôi không thấy
một ý kiến cá nhân nào nói bồi đắp các đảo là một sai lầm. Họ sẽ đưa ra nhiều
lý do cho việc xây dựng cũng như cung cấp các đánh giá khác nhau của hệ quả
này, nhưng tất cả họ đều sẽ đồng ý đây là việc mà Trung Quốc phải làm, sớm hay
muộn.
Những lý do này trải rộng từ các chiến lược lớn cho
tới các việc đơn giản, từ việc thiết lập một chỗ đứng chiến lược trong Biển
Đông cho tới cung cấp điều kiện sống tốt hơn cho cư dân sống trên đảo. Nhưng
tất cả đều cảm thấy nó đang khiến vị thế của Trung Quốc được tăng cao, Bắc Kinh
sẽ thiết lập sự hiện diện của mình ở Biển Đông xứng tầm với sức mạnh mới và vị
thế của mình, đặc biệt kể từ khi các tuyên bố chủ quyền của các quốc gia khác
đã hiện diện trước đó cả thập kỷ trong khu vực.
Các thành viên của cộng đồng quốc tế đã nhiều lần chỉ
trích hành động bồi đắp đảo của Trung Quốc. Nhưng với sự đồng thuận rõ ràng
hiện hữu bên trong của Trung Quốc, cũng như thực tế là Công ước Liên Hợp Quốc
về Luật Biển không nghiêm cấm việc xây dựng trên các thực thể trên biển hiện
tại, đây có phải là một chính sách tốt trong việc tiếp tục xây dựng trên các
đảo bồi đắp?. Nó sẽ mang lại lợi ích cho mỗi quốc gia liên quan hay chuyển tiếp
tới câu hỏi chiến lược về việc tạo ra một hiện trạng ổn định mới trong khu vực?
Chính sách giữ nguyên hiện trạng mới đòi hỏi Trung
Quốc phải làm rõ những ý định chiến lược của mình. Ngay cả giới lãnh đạo Trung
Quốc cũng chưa có câu trả lời rõ ràng đối với câu hỏi này. Trong số ba trường
phái đã được phân tích ở trên, chỉ có những người theo trường phái cứng rắn là
có ngay câu trả lời dù nó sẽ gây ra sự bất ổn lớn. Số còn lại vẫn đang tranh
cãi về chiến lược nào Trung Quốc nên thi hành đối với vấn đề Biển Đông. Đây là
thực tế quan trọng. Điều đó chứng tỏ chính sách của Trung Quốc trong vấn đề
Biển Đông lả chưa chắc chắn, do vậy sẽ còn thay đổi.
Cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Mỹ và ASEAN nên tạo
điều kiện thuận lợi cho việc hình thành những chính sách của Trung Quốc theo
hướng hòa giải hơn. Điều này sẽ giúp nâng cao tầm quan trọng trong những quyết
định của phía Trung Quốc, biến quan điểm thiểu số thành sự đồng thuận đa số.
Về phần mình, Trung Quốc cần phải làm rõ các mục tiêu
chính sách của mình và phải trấn an các nước láng giềng, cũng như Mỹ.
Một nhà ngoại giao kỳ cựu của Trung Quốc gần đây nói
rằng ngoại giao của Trung Quốc hiện đang ở giai đoạn “vị thành niên”. Tuy
nhiên, một Trung Quốc có trách nhiệm trong khu vực và toàn cầu cần phải học
cách để trở thành “người trưởng thành”.
* Feng Zhang
/Feng Zhang là nhà nghiên cứu tại khoa Quan hệ
Quốc tế, trường Đại học Quốc gia Úc, giáo sư liên kết của Viện Nghiên cứu Nam
Hải Quốc gia, Trung Quốc. Bài viết được đăng trên Foreign Policy/.
Trần Quang - gt/(Nghiên
Cứu Biển Đông)
------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét