* VƯƠNG TRÍ NHÀN
Cộng với những hiểu biết vốn có từ trước năm ngày du lịch bụi ngắn ngủi, đủ để tôi cảm thấy xã hội Nhật, người Nhật là cả một hình ảnh đảo ngược của xã hội Việt, người Việt.
Cộng với những hiểu biết vốn có từ trước năm ngày du lịch bụi ngắn ngủi, đủ để tôi cảm thấy xã hội Nhật, người Nhật là cả một hình ảnh đảo ngược của xã hội Việt, người Việt.
... Xuất phát từ Hà Nội, sau một chuyến bay đêm hơn bốn
tiếng đồng hồ, chúng tôi bắt đầu một ngày mới trên chiếc xe từ sân bay Narita
về Tokyo . Không
khí dịu mát như một ngày cuối thu đầu đông ở đồng bằng sông Hồng, song cái lạnh
ở đây lại có khí vị vùng biển bắc, cái cảm giác mà tôi cảm nhận khi đến Leningrad vào năm 1988.
Nhìn chung quanh, thấy khung cảnh thoáng rộng sạch sẽ,
cây cối đạm bạc. Ghé lại một trạm bên đường để xe mua xăng, bắt gặp không khí
của nước Nhật bình thường, người nào người nấy chăm chú vào công việc.
Có cái lạ là, khi đến Tokyo , tôi cũng lại gặp một khung cảnh vắng
lặng như vậy. Không những trên đường người đi bộ thưa thớt mà cả ô tô đi lại
cũng ít. Trong khi đó, lại biết rằng Tokyo
có đến 20 triệu dân và hàng ngày có đến 40 triệu người lai vãng. Nơi tôi tới
chỉ là ngoại ô chăng? Thành phố chính ở đâu? Như đã đoán được thắc mắc của tôi,
người hướng dẫn du lịch sớm giải thích, đây chỉ là phần trên mặt đất, còn trong
lòng đất có đến bốn thành phố nữa. Ở đó cũng có giao thông, xe điện ngầm, những
phố buôn bán; ở đó mặc dù rất đông, nhưng rất trật tự.
Ngày đầu xa
lạ
Địa điểm đầu tiên chúng tôi đến tham quan là phía
ngoài hoàng cung Nhật. Cũng như mọi người dân nội địa, chúng tôi không được vào
tham cung điện chính của hoàng gia, chỉ được đứng và quan sát từ xa và nghe
người giới thiệu kể chuyện lại về một cuộc sống rất khổ hạnh của những người
sống trong cung điện đó.
Người Nhật quen chấp nhận tình trạng cách ly này bởi
họ hiểu những người sống trong hoàng cung phải nhận vai hình mẫu của nước Nhật,
có nghĩa phải chịu rất nhiều áp lực. Có những người con gái trong đó cảm thấy
thật nhẹ nhõm nếu lấy được người chồng dân thường, ra khỏi hoàng cung, để được
sống như mọi người bình thường.
Buổi chiều chúng tôi đến thăm ngôi nhà của Tòa thị
chính, ở đây có tháp truyền hình cũ, từ đó có thể nhìn ra cả Tokyo .
Có điều mất vui là ngay trong buổi chiều đầu tiên này,
đoàn du lịch chúng tôi đã có một người bỏ trốn. Khi cả đoàn lên tháp rồi lần
lượt xuống dần thì anh ta lẩn mất. Sau mới biết, từ Hà Nội anh ta đã chuẩn bị
để làm việc này. Cái ba lô còn lại trên xe ô tô của anh nhẹ tênh. Theo sự giải
thích của người hướng dẫn, có lẽ đây là một người Việt được bố trí sang Nhật để
trộm cắp thuê. Dân Việt có hộ chiếu bên đó, khi phát hiện ăn cắp thì sẽ bị trục
xuất khỏi nước Nhật. Nên họ phải thuê những người trong nước sang làm chân rết.
Người này có bị tống về thì cũng không mất đầu mối.
Trong lúc vẩn vơ chờ làm các thủ tục, khoảng hơn một
tiếng đồng hồ, tôi nhìn quanh khu Tòa thị chính, thấy một không khí vắng vẻ.
Nhớ nhất là hình ảnh một cô gái dắt hai con chó đi đường. Cô chăm sóc chúng hết
sức cẩn thận. Khi chúng đói lấy thức ăn và theo dõi chúng ăn, bình thản chờ đợi
như bà mẹ đang đi chơi với những đứa con thân yêu của mình.
Tâm thế mới
của phụ nữ Nhật
Để giải tỏa nỗi chán chường của bọn tôi, người hướng
dẫn giới thiệu một tình thế của người dân Nhật mà trước kia chúng tôi không thể
tưởng tượng nổi.
Anh cho biết , hiện nay ở nước Nhật có đến 62% người
sống độc thân. Nếu nhìn trên đường, chúng ta luôn thấy những người đàn ông chăm
chú nhìn về phía trước. Họ buồn, như là một thứ nhân vật phụ của cuộc đời. Còn
chính phụ nữ mới là những người đầy sức sống và thách thức.
Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật --từ nhỏ, đã được
nghe câu nói ghi nhận sự tận tụy của người phụ nữ Nhật với gia đình.
Sau chiến tranh, khi nước Nhật bắt tay khôi phục kinh
tế, người đàn ông tập trung vào công việc của mình và ít khi về nhà trước 7h
tối. Mọi việc liên quan tới gia đình và con cái đặt cả lên vai vào người đàn
bà. Họ tự nguyện làm như thế cả đời.
Hôm
nay đây tôi còn chứng kiến cảnh một đôi ông bà già trên đường; khi tới chỗ
nghỉ, người phụ nữ rút chiếc khăn mù xoa trong túi ra mời chồng mình ngồi. Nay
mẫu phụ nữ loại đó chỉ còn thưa thớt.
Bề ngoài người phụ nữ Nhật không tự biểu hiện lộ liễu
như người Việt. Màu sắc phần lớn trang phục là màu trắng, màu xám và màu đen.
Như đang tự giấu mình đi. Không ai tô son, trát phấn… Nhưng cuộc sống bên trong
thì, theo anh hướng dẫn viên, thực sự nồng nhiệt. Khoảng mươi, mười lăm năm gần
đây, phụ nữ Nhật nổi loạn, nhiều người không lấy chồng vì không thích phụ thuộc
vào gia đình chồng và rất tự lập trong đời sống riêng tư.
Ở Nhật, đời sống tình dục được coi bình thường như cơm
ăn nước uống và phụ nữ có phố đèn đỏ của mình. Ở đó, đối tác của họ là những
thanh niên mới lớn và lấy việc thỏa mãn nhu cầu phụ nữ làm nghề phụ. Người ta
có cách giữ bí mật cho cả hai bên.
Trong túi đàn bà, từ em thanh nữ mới lớn đến đám sồn
sồn tuổi trung niên luôn có ca-pốt. Và họ chủ động tìm tới những đối tượng để
có thể thỏa mãn những khát khao bất chợt nhưng chính đáng.
Trong các món quà trao nhau nhân ngày lễ tết, chính
phụ nữ là màu nóng, còn nam giới được tượng trưng bởi màu lạnh.
Niềm vui với
những công việc bình thường
và tính tự
lập được rèn từ nhỏ
Buổi
sáng chủ nhật, bọn tôi đến khi vui chơi Disney Land
nổi tiếng. Ấn tượng lớn nhất, vẫn là những người phụ nữ làm công việc như hướng
dẫn người đi tham quan và bảo vệ trật tự chung quanh đó. Những công việc có vẻ
tẻ nhạt như thế được người Nhật làm với tất cả niềm vui và sự háo hức khiến
người Việt chúng ta gần như không thể hiểu nổi. Đứng bên cạnh những đoàn xe lửa
làm theo lối cổ, các nhân viênphục vụ không những ân cần giúp đỡ cho người lên
xe, mà còn tình cảm vẫy chào khách lên đường, rồi lại hào hứng đón khách xuống
khi hết vòng quay.
Người hướng dẫn du lịch giải thích thêm với chúng tôi,
người Nhật rất nghiêm túc trong việc công. Tất cả công chức đi làm đều mặc Âu
phục. Với họ, làm công chức không phải chỉ để kiếm tiền mà để phục vụ xã hội,
việc làm hợp đạo nghĩa làm người.
Một ấn tượng khác, là trẻ con trên nước Nhật rất ngoan
và quen tự lập. Trên đường mỗi trẻ có túi thức ăn riêng, tự lấy thức ăn khi
muốn. Thông thường các em đi theo người lớn rất đàng hoàng. Một ngày ở công
viên không nghe tiếng khóc nào của bọn trẻ.
Người Nhật có tinh thần tự trọng cao độ. Trong hoàn
cảnh nghèo khó, ít khi chấp nhận sự giúp đỡ của người khác mà làm được cái gì
thì hưởng cái đó. Điều đó được rèn từ nhỏ. Ở trường nuôi dạy trẻ, từ lúc biết
bò, đứa trẻ đã phải tự bò đến bàn thức ăn để lấy thức ăn. Ở lớp lớn hơn, đứa
trẻ tự gấp lấy quần áo và lo giữ vệ sinh.
Từ chuyện
giao thông tới chuyện pháp luật
Đã hơn chục lần đi theo các đoàn du lịch nước ngoài,
tôi thấy trên xe thường người Việt Nam chỉ hay pha trò đùa bỡn, trêu chọc nhau,
bàn chuyện ăn uống, nói tục. Đa số người mình đi du lịch để làm dáng, để tiêu
tiền, không mấy ai tính chuyện đi để hiểu biết về xứ sở mà mình đặt chân tới.
Những người hướng dẫn du lịch Trung quốc chẳng hạn, rất hiểu cái sự tầm thường
đó. Trên xe, thể theo yêu cầu của người mình, họ nói những chuyện trong thâm
cung bí sử, nhưng toàn thứ vụn vặt gây tò mò. Nói chung trình độ những người
hướng dẫn cho các đoàn VN ở các nước gần ta rất thấp. Người có chí chắc đi học
tiếng Anh tiếng Đức chứ chả ai chịu học tiếng Việt làm việc với các đoàn Việt.
May mắn lần này chúng tôi gặp người hướng dẫn khác
hẳn. Anh cũng là người Việt. Sang Nhật học, sau đó nhập quốc tịch Nhật và đưa
cả vợ con sang đó. Trong những lúc rỗi trên xe, anh Đức (tôi không biết họ, chỉ
nhớ tên) giới thiệu với chúng tôi rất nhiều về đặc sắc của nước Nhật, và điều
đó rất cần thiết với những người từ Việt Nam tới.
Ví dụ có lần anh nói về chuyện giao thông trên đường.
Chúng ta biết rằng người Nhật đi lại rất từ tốn và
người ta nhường đường nhau khi có việc cần tranh chấp. Trong câu chuyện của
mình, anh Đức có lưu ý thêm một điều. Luật pháp được soạn thảo rất tỉ mỉ và nói
cho cùng là rất nhân bản. Một mặt nhà nước bố trí cảnh sát theo dõi tốc độ của
xe trên đường, nhưng mặt khác, họ cho phép các nhà sản xuất cung cấp cho lái xe
các thiết bị cần thiết có khả năng cho biết chỗ nào cảnh sát giao thông
đứng bắn tốc độ, để tự động điều chỉnh lại. Tức là người làm luật muốn bảo vệ
quyền được đi nhanh hơn của xe cộ trong hoàn cảnh cho phép.
Sự
áp đặt luật pháp của những người cầm quyền ở đây cũng là rất mềm dẻo.
Khi có người lái xe phạm lỗi, cảnh sát, từ lúc yêu cầu
giữ lại đến lúc lên xe để đặt vấn đề phạt, đều có thái độ lịch sự tôn trọng đối
tác, tìm cách thân thiện bàn bạc, chứ không phải một chiều hạch sách rồi
muốn bắt người ta thế nào cũng được. Khi không thống nhất được với nhau, họ để
dành quyền phán xét cho tòa án,-- cố nhiên đó không phải loại tòa án bao giờ
cũng nhăm nhăm bênh cảnh sát như người nước mình. Danh tính của những người bị
phạt không bao giờ bị làm lộ.
Tôi cho đó mới là sự tôn trọng, sự khuyến khích người
dân sống và làm theo luật pháp một cách hữu hiệu.
Pháp luật --
một bên nặng về răn đe
trừng trị và
một bên biết “cận nhân tình”
Có
lần đọc cuốn Đông Á – Đông Nam Á - Những vấn đề lịch sử và hiện tại (nx b Thế
giới, 2004), thấy ông Vũ Minh Giang (Đại học Quốc gia Hà Nội) nói tới những
điểm tương đồng trong tổ chức nhà nước của Việt Nam và Nhật Bản có nhấn mạnh cả
hai bên đều chú trọng pháp luật (sách trên tr. 62).
Hôm nay nhớ đến đoạn này bỗng thấy phì cười. Vì sự
thật trong khi ở nước người, chính quyền hết sức tôn trọng và đặt mình vào
trong pháp luật thì ở mình, pháp luật được soạn ra để áp dụng với dân, chứ nhân
viên công quyền đều hiểu ngầm rằng mình là người đứng ngoài. Mà người dân cũng
vậy, thấy pháp luật là chuyện phiền phức, song mặc nhiên chấp nhận, lại còn tìm
thấy niềm vui trong việc làm ngược pháp luật. Trừng phạt răn đe nặng nề đến độ
dã man được xem như một sự cần thiết.
Để hiểu tính mềm dẻo mà chặt chẽ của pháp luật ở Nhật
Bản, hãy trở lại câu chuyện về nhu cầu phụ nữ, phố đèn đỏ, mua dâm và bán dâm.
Một mặt theo phong tục tập quán cổ, luật nước Nhật cấm tất cả sự tiếp xúc nam
nữ ở dạng trần trụi. Thế nhưng đồng thời họ vẫn thấy con người Nhật Bản đã thay
đổi, nên các nghị sĩ khi làm luật đã nghĩ ra cách để bảo vệ sự tiếp xúc này,
không để dân bị ràng buộc vào luật một cách máy móc. Ví dụ như họ sẽ phạt nếu
một trong hai bên không có vật lạ trong người khi tiếp xúc. Mà vật lạ này hiểu
theo nghĩa rất rộng, nếu phụ nữ có một vòng đeo tay hoặc người đàn ông có một
cái răng giả thì tức là đã không phạm luật. Thế thì còn phạt được ai nữa? Những
điều này, theo tôi rất nhân đạo. Còn thuần túy truy bức như ở ta là bất cận
nhân tình và sẽ sinh ra gian dối.
Các cửa hàng
đồ cũ và thói quen cộng tác trong mọi việc
Nhân khi vào cửa hàng đồ cũ, anh Đức giới thiệu cho
chúng tôi biết ở Nhật, loại hàng này có cả một hệ thống phân phối. Những năm 70
– 80 người dân bình thường có thói quen thải loại đồ cũ ra theo hình thức rác
và người Việt Nam
sang nhặt mang những đồ cũ đó đem về trong nước. Nay họ có ý thức thu gom và
phân phối lại. Nhân đây, anh Đức kể về việc tổ chức làm ăn ở xứ này. Là khi có
một công việc hợp lí thì nó cũng được phổ biến khắp nước Nhật. Những người cùng
ý tưởng tự tổ chức thành những công ty, không có người nào đứng ngoài công ty
đó mà có thể cạnh tranh với họ được. Người Việt mình dành được miếng mồi thì ăn
lẻ, không ai cộng tác được với nhau, mà chỉ dìm dập nhau, phá nhau. Ở Nhật, nếu
một người có sáng kiến chung thì sẽ đưa ra để phục vụ lợi ích chung.
Chung quanh
núi Phú Sĩ
Tối hôm qua, ngủ đêm tại khách sạn thuộc khu Hà Khẩu
Hồ (tôi đọc theo âm Hán Việt) thuộc khu vực núi Phú Sỹ, chúng tôi có cảm tưởng
như lạc vào gia đình người Nhật. Ăn một bữa cơm theo kiểu gia đình người Nhật
vẫn ăn. Xong, được bố trí đến khu vực tắm. Nam chung một bên, nữ một bên,
nhưng đã xuống tắm phải bỏ hết quần áo. Đêm, được bố trí ngủ lại căn phòng như
của người Nhật. Việc xâm nhập sâu vào phong tục ăn ở như thế trong những lần đi
các chuyến khác, bọn tôi không có dịp thực hiện.
Sáng dậy, đi quanh hồ, tôi chợt nhận ra rằng nhà cửa ở
đây cũng nhô ra thụt vào mà không có lớp lang trật tự như mạn Giang Nam bên Trung
Quốc. Vườn hoa ở các gia đình hay các công sở không nổi bật lên vẻ rực rỡ mà
trông hơi có vẻ khổ hạnh và chỉ gợi chú ý bởi lùm cây hoặc một tảng đá nào đấy.
Tất cả khu vườn quy tụ chung quanh vào vật trung tâm đó. Ngoài ra cây cỏ trong
vườn thì kém, cỏ mọc rườm rà, thiếu một sự xử lý công phu. Các công viên chỉ lo
tạo ra sự kì bí mà tảng đá có vai trò vật chủ và mối liên hệ giữa đá và cây là
nhân tố chính gợi nên một vẻ đẹp.
Ngồi xe lên núi. Các tài liệu du lịch đều nói rằng Phú
Sĩ là biểu tượng của đất nước mặt trời mọc. Trước khi lên đến trạm 5 ở độ cao
2000m, chúng tôi phải vượt qua hàng chục cây số rừng. Nhưng khi đến nơi, ngôi
miếu trên trạm 5 đó khá đơn sơ. Nói chung, chùa chiền của Nhật không hào
nhoáng, lộng lẫy như đền chùa của Trung Quốc. Thu hút du khách nhất là việc
đứng ở đấy chiêm ngưỡng cả ngọn núi trong tuyết phủ.
Đối với người Nhật, núi Phú Sỹ là biểu tượng cao nhất
của sự thiêng liêng. Người ta theo dõi để không ai có thể lấy đi hòn đất nào
chung quanh núi. Đã có những khách nước ngoài đến, định lấy những hòn đất đi và
đều bị phát hiện.
Chung quanh núi là khu vực huyền bí, người ta nói có
những người Nhật đã đến đây để sống những ngày cuối đời, tức là tự tử ngay
trong khu rừng trùng điệp mà mãi về sau người ta mới phát hiện ra. Số người này
đang tăng hàng năm.
Ấn tượng sau
nửa ngày ròng ngồi ô tô
Từ giã Phú Sỹ, bọn tôi tới Owakudani, nơi có vết tích
của miệng núi lửa phun trào cách cây 3000 năm. Sau đó, là chặng đường dài tới
Nakoné và Nagoda.
Trước
lúc qua Nhật, một người quen cũ đã nói rằng, do du lịch bụi, chắc là bọn tôi
không có điều kiện để sử dụng những phương tiện hiện đại nhất như tàu cao tốc
và phải di chuyển từ địa điểm nọ đến địa điểm kia bằng ô tô. Ông nói điều đó
với sự ái ngại vì ở Nhật số người di chuyển bằng ô tô rất ít. Nhưng đối với
tôi, cảm tưởng là được ngồi ô tô đi trên những con đường nhựa nhẵn bóng và hiện
đại của nước Nhật cũng đã sung sướng lắm. Nữa là, sau một buổi chiều như thế,
lại có may mắn gần như được nhìn gần vào một nước Nhật và hiểu thêm điều người
ta hay nói “Xứ này nghèo về tài nguyên và chỉ có một thiên nhiên khắc khổ,
nhưng đã chinh phục được thiên nhiên khắc khổ đó để trở thành một xứ giàu có.”
Nhìn một hai ngôi nhà lắt lẻo giữa một triền núi xa,
tôi hỏi Đức họ sống ra sao thì được trả lời:
--
Một gia đình Nhật định cư ở đâu thì chính phủ Nhật có trách nhiệm làm đường tới
đó, bảo đảm hàng hóa lưu thông tới đó để họ có thể sống bình đẳng với mọi
người.
Có
một chuyện mà ở nhà tôi đã biết nhưng chưa thấy hết ý nghĩa của nó, đó là việc
người Nhật không khai thác tất cả những rừng cây và vùng mỏ cũng khá giàu có
của mình. Tất cả những đồ gỗ ở đây đều nhập từ nguồn lâm sản nước ngoài, cũng
như các khoáng sản cần thiết cho công nghiệp của họ. Đối chiếu với cách nghĩ
Việt Nam ,
kể ra đây cũng là một sự lạ. Và lạ hơn hết là người Việt chúng ta còn cho
chuyện tàn phá tài sản thiên nhiên là chuyện thường, không bán hết đi thì lấy
gì mà ăn.
Nông thôn đô
thị chung một mặt bằng
Lúc này trước mắt du khách không còn là một nước Nhật
của các cao ốc và các khu đô thị thoáng đãng. Vùng đất nằm rải rác giữa núi non
và bãi biển không có gì là hấp dẫn và mĩ lệ như các vùng biển của Việt Nam mình. Nhưng
ở bất cứ nơi nào có điều kiện thì người nông dân Nhật vẫn cần cù sản xuất. Cảm
giác còn lại trong tôi là một nước Nhật giống như một mặt bằng, giữa nông thôn
và thành thị gần như không có sự chênh lệch. Nay, là thời, theo Đức kể, người
nông dân Nhật làm ruộng bằng cách đi thuê các xí nghiệp nông nghiệp làm cho họ.
Và đã có các hãng lớn chuyên làm nông nghiệp phụ trách giúp họ từ việc chọn
giống, cày bừa đến bón phân và thu hoạch. Người nông dân chỉ việc ở nhà dùng
tiền của mình đầu tư chứng khoán.
Người
Nhật đặc biệt lo bảo vệ nguồn lương thực của mình, tạo cho xứ sở một thứ thức
ăn không những ngon lành mà còn bảo đảm chuẩn khoa học không gạo nước nào có
thể có được. Đã có những thời gian mà chính phủ Nhật do áp lực quốc tế phải
nhập một số gạo của các nước khác, khi mang về phân phối cho dân thì không đâu
người ta lấy, đến cả cho không cũng không ai nhận. Cuối cùng, số gạo đã mua
buộc phải đem đi dùng làm hàng viện trợ cho các nước khác.
Đặt người
Việt bên cạnh người Nhật
Cũng nhân thời gian rỗi trên đường xa, Đức kể với tôi
về chuyện những người Việt Nam ở Nhật. Đức cho biết thật ra sau 4-1975, số
người Việt sang Nhật không phải là ít, nhưng số có thể trụ lại được ở Nhật thì
không nhiều và phần lớn là họ phải bỏ qua bên Úc hoặc bên Mĩ làm ăn. Việc du
nhập vào cộng đồng Nhật, đòi hỏi sự nỗ lực đặc biệt mà người Việt không quen,
chưa kể tiếng Nhật với nhiều người là khó học.
Chưa quen là như thế nào? Dù là mới tiếp xúc với người
Nhật và văn hóa Nhật một cách đơn sơ, tôi vẫn có cảm tưởng người Nhật với người
Việt Nam như hai đối cực, người nọ là thế giới đảo ngược của người kia.
Người
Nhật có tinh thần gắn bó với xã hội, cấu kết với cộng đồng còn người Việt khôn
lỏi, chạy vặt.
Người Việt thích phô trương còn người Nhật giấu mình
sau vẻ ngoài bình lặng.
Người Việt ồn ào, lắm chuyện coi nơi công cộng là chỗ
tự do buông thả còn người Nhật sợ nhất làm phiền người khác cũng như là bị làm
phiền.
Bữa qua Miến Điện, tôi nhận ra một điều là không hiểu
sao người bên đó có vẻ ít nói, trên đường không có cảnh vừa đi vừa cầm điện
thoại tán chuyện. Có thể người Miến Điện không có tiền mua các loại máy mới?
Nhưng Nhật là một nước giàu có. Sao dân họ vẫn không có thói nói lắm nói nhiều
và xả ra cả khối lượng rác âm thanh ngập ngụa trên mọi ngả đường? Chợt nghĩ
chính sự nói lắm nói nhiều nói một cách ba vạ đã giết chết sự suy nghĩ của
người mình. Nó làm cho chúng ta thành một xã hội câm nín trước các vấn đề rất
lớn đang phải đối mặt.
Xuất khẩu
lưu manh
Hôm nay có đến hơn một giờ đồng hồ liền, Đức
toàn kể chuyện người Việt sau 4-1975 tràn sang Nhật làm những việc gian dối như
cờ bạc trộm cắp ra sao, cảnh sát Nhật đã từng bước đấu trí với người Việt để vô
hiệu hóa các đồng bào lưu manh của chúng ta thế nào.
Chuyện đấu trí ấy tôi định ghi mà không sao theo dõi
kịp nên đành bỏ. Chỉ nhớ nhất một chi tiết. Có nhiều người Việt sau khi kiếm
bẫm bằng con đường bất chính trở ,liền lấy cái vốn thu được từ nước ngoài về
làm vốn kinh doanh và trở thành đại gia.
Từ việc này nẩy ra hai ý nghĩ bổ sung:
1/
Ở các xã hội lành mạnh, đám nhà giàu là những người con ưu tú của dân tộc, họ
như đầu tầu kéo cả cộng đồng đi theo. Ở một xã hội dở dang rồi biến chất như ở
ta, một thời gian dài không công nhận tài sản cá nhân, thì ngược lại, đám nhà
giàu phần lớn là đám lưu manh, khoác áo quan chức làm việc lưu manh. Họ phất
lên trong chiến tranh bằng cách buôn lậu những hàng quốc cấm xuyên quốc gia.
Với những đồng tiền kiếm được bằng các thủ đoạn xấu xa, khi trở về nước làm
kinh tế, họ có góp phần thúc đẩy sự làm ăn và vì thế cả người dân lẫn chính
quyền hoan nghênh họ. Nhưng lùi xa mà nhìn, thì thấy đóng góp của những người
này không thấm là bao so với sự phá hoại những nguyên tắc đạo đức, tức những
tác hại lâu dài, mà họ mang lại.
2/ Ngoài số đại gia trên, hiện còn không ít người
Việt, đang sống vất va vất vưởng theo kiểu ăn cắp vặt, buôn lậu, làm thuê làm
mướn ở xứ người.
Nhớ
hồi chống Mỹ trong đầu mọi người dân luôn được nung nấu cái ý nghĩ Ta chiến đấu
thế này không phải chỉ vì ta. Ta đang chiến đấu cho cả thế giới. Ta đang trở
thành lương tâm nhân loại… .
Kỳ
cục thế mà ai cũng tưởng thật và ai cũng thích.
Được những tư tưởng kiểu đó quấn chặt vào đầu, nhiều
người Việt sau 4-75 ra nước ngoài, tự cho phép mình làm tất cả những việc xấu
xa nhất, bất chấp luật pháp nước sở tại và những nguyên tắc đạo đức thông
thường. Một cuộc xuất khẩu thói lưu manh đã kéo dài chưa biết bao giờ chấm dứt.
Thăm các di
tích lịch sử
Tham quan chùa Thanh Thủy. Ấn tượng nhất không phải là
ngôi chùa, mà là cách dựng công trình tôn giáo này. Cách nó bám vào chân hòn
núi đá. Cũng lại là một biểu tượng của tinh thần bám trụ của con người vào một
thiên nhiên khắc nghiệt.
Buổi
chiều tới ngôi Chùa Vàng. Đọc chữ Hán, thấy chính ra chùa này phải gọi là Kim
Các tự mới đúng. Tôi thích cả không gian chung quanh chùa và cả cái cách
người ta tạo ra ấn tượng đối với người tới tham quan.
Có một điều tôi thấy tin, là những chi tiết
người ta trình bày về ngôi chùa, cái giá trị cổ kính của nó. Các di tích ở Việt
Nam thường có những bảng giới thiệu rất luộm thuộm, nhiều lúc có cảm tưởng do
những người không hiểu biết viết ra (Còn nhớ là lần vào Văn miếu năm 2010, khi
đọc tiểu sử Khổng Tử, thấy viết là Đức Thánh Khổng "có đến bốn
tác phẩm gọi là Tứ Thư". Điều này sai vì bốn tác phẩm đó có tên là Luận
ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh Tử. Sao lại nói cuốn Mạnh Tử do Khổng Tử viết
được?)
Một niềm tin khác, khi đến thăm các công trình kiến
trúc cổ, là cảm thấy chắc chắn nó giống như là ban đầu nó đã được hình thành.
Trong một cuốn sách về văn hóa Nhật, tôi đọc thấy người ta nêu lên một nguyên
tắc khi trùng tu các công trình lịch sử. Là bất cứ thời nào, muốn làm lại các
công trình cũ thì cũng phải làm đúng như cái ban đầu, kể từ hình dáng, các chi
tiết trình bày cho đến chất liệu kiến trúc.
Một cách tự nhiên, tôi có cảm tưởng, chúng ta có thể
tin được nền sử học Nhật Bản, một niềm tin không thể có đối với nền sử học Việt
Nam
hiện nay.
Trong số các đoàn nội địa tới tham quan tại các công
trình kiến trúc lịch sử, ở đâu tôi cũng gặp những đoàn học sinh do các giáo
viên già dẫn đường và giới thiệu. Sau được nghe lại, thấy nói là trong chương
trình học phổ thông, tất cả các học sinh có quyền được đi tham quan các di tích
có ghi trong sử sách. Chi phí các chuyến đi ấy do nhà nước đài thọ và chỉ những
người kinh nghiệm lâu năm trong nghề mới được giao việc hướng dẫn các em.
Tình hình này khiến người ngoại quốc hiểu thêm một
điều là tại sao không bao giờ các di tích, các thắng cảnh ở Nhật lại có tình
trạng tràn ngập khách tham quan như bên Trung Quốc. Hình như những người lớn
tuổi của nước Nhật đã tham quan di tích này từ lúc nhỏ rồi, nếu có tham quan
chỉ đi lại thôi. Còn ở Trung Quốc, các di tích thường bị lấp đầy bởi người nông
dân của các tỉnh xa xôi mà họ muốn đến với các thắng cảnh. Giống như cánh du
lịch bụi Việt Nam
chúng ta, lấy đi làm cái mốt, đi chỉ để chứng tỏ rằng mình chẳng kém gì người.
Trở lại với quá khứ của Nhật Bản, tôi luôn luôn bị ám
ảnh bởi mối quan hệ của nước này với Trung Quốc. Một mặt thì cái ảnh hưởng ấy
quá rõ và người Nhật không giấu điều này. Ai đó đã nói: “Người Nhật tìm ở Trung
Hoa đức trầm tĩnh, vẻ hào hiệp và tính muôn màu muôn vẻ mà họ không thể có”.
Mặt khác, suốt trong quá trình lịch sử, người ta cũng bắt gặp nỗ lực của người
Nhật hướng theo cái tinh thần "trên cơ sở hoàn thiện mình, dám là
mình, vui với mình và không ghen tức với người nước ngoài". Đó lại là
điều không thấy ở người Việt, văn hóa Việt.
Người Nhật
làm du lịch
Những người tổ chức du lịch đã cố gắng cho chúng tôi
biết được nước Nhật ở nhiều cung bậc khác nhau. Ví dụ về giao thông họ có bố
trí cho chúng tôi ngoài chuyện thường xuyên ngồi trên ô tô, có lúc đi tàu thủy,
có lúc đi tàu cao tốc.
Về ăn uống, ngoài những lối ăn nhanh theo kiểu buffet
thì họ thường xuyên cũng cho chúng tôi vào những quán ăn tổ chức theo kiểu
truyền thống. Ở đó, bọn tôi ngồi bệt xuống đất, chân đặt lên cái hố được khoét
rộng chung cho cả bàn, trên bàn đặt nồi lẩu. Cái thú vị nhất đối với bọn tôi
nói ra kể cũng phàm tục song cũng xin kể ra kể đây. Thú vị vì, nhìn vào cái nồi
lẩu, thịt không bao giờ thiếu. Khi ăn hết, nếu cần chúng tôi có thể gọi thêm mà
không phải trả thêm tiền.
Lúc đầu bọn tôi cũng lo lắng có những món ăn của Nhật
không hợp khẩu vị, sau thì thấy cũng thích nghi dễ dàng.
Trong
các chương trình như là thêm vào buổi chiều hôm nay, có việc chúng tôi đến thăm
cửa hàng kimono. Ở đó, khách du lịch vừa có dịp tham quan cả cơ sở người ta
đang dệt vải để làm ra kimono, và cũng có một buổi biểu diễn thời trang, trong
đó những người Nhật trình bày cách sử dụng trang phục này.
Điều “rất Nhật” ở đây lại chính là cái bề ngoài
"không chuyên nghiệp", nó ngay lập tức gợi nên một thoáng thất vọng ở
những người Việt thạo đời. Ra vào đi lại trên sân khấu lúc này không phải là
những cô gái chuyên môn trình diễn thời trang, mà chỉ những người phụ nữ bình
thường, tưởng như họ đang đi ngoài phố, vừa được mời vào.
Phụ nữ Nhật nói chung không đẹp, rất ít khi chúng tôi
phải sững sờ cả người như khi sang Trung quốc, bắt gặp các cô gái còn chất quý
phái hôm qua. Những cô gái Nhật biểu diễn thời trang ở xưởng làm và bán kimono
cũng không thể gọi là đẹp. Họ trình diện trước du khách như những người thông
minh, nghiêm túc, tự trọng, có sự cởi mở với người bên ngoài, mà vẫn giữ cho
riêng mình đời sống nội tâm. Những bộ trang phục họ mang ra trình diễn hôm đó
không phải là những hàng đắt tiền mà đám dân du lịch Việt Nam – những
người đang thèm tiêu tiền -- háo hức. Nhưng họ đâu có tính chuyện câu khách. Họ
chỉ muốn giới thiệu một nét văn hóa Nhật.
Những dư âm
của cuộc động đất
Tiếp tục câu chuyện về người Nhật trong sự so sánh với
người Việt Nam .
Sự kiện động đất xảy ra cách đây mấy năm vẫn còn trong kí ức người Nhật như
chuyện mới xảy ra năm ngoái tháng trước hôm qua. Nhưng, chính lúc đó thì phẩm
chất dân tộc của họ được bộc lộ.
Đức nói rằng ở đây đã lâu, song chính anh cũng
rất ngạc nhiên vì cách phản ứng của người Nhật với động đất.
Ví dụ như, khi Tokyo
mất điện, người ta đi bộ về nhà có khi đến hàng vài chục cây số, cái cửa hàng
bên đường tung hàng ra để phục vụ người đi lại, mặc dù họ không có tiền. Khách
sạn cho người đi đường vào ở nhà và không tính tiền.
Sau đó, tinh thần và nghị lực của người Nhật cũng bộc
lộ ở việc sự nhất trí của xã hội trong việc khắc phục hậu quả tai họa. Sau động
đất, nhà nước cắt điện một số vùng thì các vùng khác cũng tự động cắt theo giúp
nhà nước có được lượng điện dự trữ. Khi đi làm việc, có lệnh chính phủ,
công chức không dùng caravat để tránh giặt giũ nhiều, thì người thường cũng
tuân theo .
Cả nước bao giờ cũng làm quá hơn so với mức chính phủ
yêu cầu. Chỉ có câu khẩu hiệu nêu ra và viết trong các taxi: Nhật Bản hãy cố
gắng. Mấy chữ ngắn ngủi thế thôi, mà người Nhật đã hiểu rất nhiều.
Trở lại với ý nghĩ mới hình thành trong tôi mấy ngày
nay, hình như với người Việt Nam
thì người Nhật ở dạng đảo ngược. Người mình sống trong sự cạnh tranh, phải lấy
dối trá làm đầu khi quan hệ với nhau. Trong quan hệ với nhà nước và cộng đồng,
càng trục lợi kiếm chác cho cá nhân càng tốt. Ở Nhật, giữa cá nhân và cộng đồng
có niềm tin chắc chắn. Luôn luôn người ta tin rằng, những nỗ lực cá nhân của
người ta sẽ được xã hội hiểu, những người tự trọng không thể làm khác.
Chuyện quanh
những ngôi chùa
Ngày
cuối cùng ở Nhật
Mấy
hôm trước, chúng tôi đã đi qua những thành phố nổi tiếng của xứ sở này như Kyoto , nhưng dù thế cũng
chỉ là lướt qua. Hôm nay cũng vậy, mang tiếng là được đến kinh đô cổ kính của
nước Nhật là Nara, nhưng chúng tôi cũng chi được đi qua phố xá một quãng, sau
đó được dẫn đến thăm ngôi chùa cổ đọc theo chữ Hán là Đông Đại Tự.
Trên đường phố Nara ,
bắt gặp những ngôi nhà cổ, loại nhà một tầng mà chắc chắn đã có từ rất lâu đời.
Trong việc xử lí những di sản này, chỗ khác của người Nhật vẫn rất rõ. Họ có sự
bố trí thế nào để những ngôi nhà cổ rộng rãi hòa hợp tự nhiên với những cao ốc
hàng chục tầng bên cạnh,-- việc này gợi cảm giác những người sống trong ngôi
nhà cổ là những cư dân lâu đời ở đất này, có thể là họ còn giàu có nữa kia, thì
mới được ở trong những ngôi nhà đó.
Còn ở Việt Nam bên cạnh những cao ốc thường
khi cũng có những ngôi nhà rách nát, làm hỏng hết cảnh quan chung. Những cuộc
đền bù bất minh, hoặc tâm lý thấy ai giàu có là ghen lồng ghen lộn, ì ra ăn
vạ…đã là nguyên nhân làm cho cái cũ cái mới không thể chung sống hòa hợp.
Hai
bên đường tới Nara ,
du khách cũng bắt gặp rất nhiều ngôi chùa. Đây là một địa điểm được mệnh danh
kinh đô của Phật giáo, đã từng là địa điểm tổ chức Đại hội Phật giáo thế giới.
Nhưng một chuyện buồn lại bắt đầu len vào, khó mà quên
được. Đức hướng dẫn viên chỉ hai bên đường và nói rằng ở đây có rất nhiều cửa
hàng bán đồ dùng dành cho các nhà sư. Anh kể tiếp, nhiều nhà sư Việt Nam đa đến
Nara này, và điều mà người Nhật bản xứ đã sửng sốt là những nhà sư đó đã mua
những trang phục đắt tiền nhất toàn loại những nhà sư các nước khác không dám
mua.
Đức có người bạn đã đi theo đoàn Phật giáo ấy, chứng
kiến cảnh mua bán của các vị sư. Với thói quen của người Sài Gòn, người bạn ấy
có hai phản ứng. Một là lập tức tính sẽ tổ chức những của hàng tương tự ở Việt Nam để bán cho
giới tu hành hám chuyện làm dáng. Hai là nhiều lúc nghĩ không muốn thành Phật
tử nữa bời vì không hiểu vì sao sư mô Việt Nam lại trần tục đến như vậy.
Một chút so sánh và cảm giác về một nước Nhật quá xa
xôi
Khi đi trên đất Nhật tôi hay nhớ lại những lần đến các
xứ khác.
Du
lịch Trung Quốc, tôi nhớ không chỉ là những lâu đài tráng lệ hay những viên lâm
cổ kính sang trọng – không khí như trong phim Hồng lâu mộng -- mà tôi còn thấy
ở đây có những mặt trái, tức cả đời sống cùng cực của người lao động bình
thường.
Ở Bắc Kinh, tôi đã vào những ngõ nhỏ mà ở đó
người ta , từng cụm dân trong hồ đồng, phải dùng hố xí tập thể, và con
đường quanh co là những mái nhà lợp tôn, lợp ngói cổ cái thấp cái cao như những
hẻm nhỏ Hà Nội. Tôi cũng thấy người ta buôn gian, bán lận, nói thách, làm hàng
giả theo lối làm tiền chém du khách không tiếc tay.
Bởi
Việt Nam
luôn là Trung quốc bị hạ thấp hẳn xuống thu nhỏ hẳn lại cái tốt bớt dần cái xấu
tăng thêm, nên tôi càng hiểu những tệ hại của xứ mình không biết bao giờ mới
khắc phục được.
Ngay cả với nước Nga nửa Âu nửa Á, tôi cũng thấy điều
gì đó tầm thường dung tục. Hồi còn Liên xô, đó là những đống đất xây dựng ngổn
ngang ngay ngoài cửa cách hàng rào sân bay không xa; những phiên chợ nông
trường lèo tèo; đám đầu trọc nghênh ngang ngoài đường. Và bây giờ ở nước Nga
của Putin, cái tôi còn nhớ khi đọc các bản tin, là những làng xóm vắng vẻ,
người đàn ông say rượu, những người đàn bà chỉ lo trau chuốt để bán mình cho
các nhà tư sản mới nổi.
Tóm lại thì
ở đâu cũng có cái gì đó gần gũi với mình.
Ngược lại, đến với nước Nhật, từ lâu tôi cũng biết là
đồng văn đồng chủng, da vàng mũi tẹt, nhưng ấn tượng còn lại thì lại là một cái
gì khác hẳn so với những ấn tượng đi Nga đi Trung Quốc.
Tôi thấy xã hội Nhật là một cái gì quá đồng đều
và quá hoàn chỉnh, do đó là quá xa xôi, người mình không biết bao giờ mới có
thể có một xã hội hợp lý như của họ.
Tình thế đó của nước Nhật toát ra không phải từ không
khí sinh hoạt của đường phố mà nó thấm vào trong cách sống cách nghĩ của từng
con người, cũng như lối sống rời rã, cái năng động hỗn loạn, và tâm lý bèo dạt
mây trôi đã thấm vào trong cách tổ chức xã hội của người Việt.
Nhớ lại khoảng thời gian mấy năm 75-76. Quá say sưa vì
chiến thắng, người mình có cảm tưởng rằng đã đánh Mĩ được thì làm gì cũng được.
Tôi nhớ không phải ở người dân thường mà ở những cấp lãnh đạo cao nhất hồi ấy
đã có ngưỡng vọng có ngày Việt Nam sẽ đuổi kịp Nhật. Công thức mà tôi còn nhớ
như in là lời truyền miệng như thế này: “Thôi, nói 20 năm thì hơi lạc quan quá,
độ 30 năm nữa thì chúng ta sẽ đuổi kịp Nhật”.
Nhắc lại ảo tưởng đó để hiểu rằng, chiến tranh để đẩy
chúng ta chui vào sừng trâu, và ra khỏi chiến tranh chúng ta đã xa lạ với thế
giới như thế nào. Ta chẳng hiểu gì về người, mà cũng chẳng hiểu gì về chính
mình.
Từ đó, trong cái thế giới hiện đại đang thay đổi
từng ngày, ta vẫn nhắm mắt mở, bước đi loạng choạng xiêu vẹo.
Trong
sự vội vã điên cuồng lo làm ăn sinh sống, xã hội Việt sau chiến tranh đã trở thành
một xã hội mất hết tự tin. Không ai bảo ai, không dám thú nhận, song trong thâm
tâm, nhiều người chỉ còn tin rằng sẽ chẳng bao giờ chúng ta theo kịp
thiên hạ. Cách sống thời thượng nhất lúc này là có cái gì bòn mót mang bán lấy
tiền. Ăn cắp của nhà nước cũng được, lột da nhau cũng được, miễn có tiền. Rồi
đi nước ngoài mua sắm những thứ xịn nhất, mới nhất, hiện đại nhất. Rồi lấy đó
làm niềm tự hào rằng người mình cũng đang có sự tiến bộ vượt bậc theo kịp các
nước trên thế giới.
Mấy năm gần đây, nhờ sự trợ giúp của phía đối tác nước
ngoài, các trường đại học ở ta thường mở ra các cuộc hội thảo văn học so sánh,
trong đó nhiều báo cáo của giảng viên Việt trình bày như là có một bước tiến
song song giữa văn học Nhật Bản hiện đại và văn học VN thế kỷ XX, rồi bước
tương đồng giữa văn học Nhật đương đại và văn học Việt Nam hôm nay. Trên một số
phương diện khác của đời sống cũng vậy. Một cái gì giống như ảo tưởng đang chi
phối cái nhìn người Việt khi chúng ta làm cái việc đối sánh giữa mình với
người, và các đồng nghiệp Nhật vì lịch sự cũng không tiện bác bỏ. Thường
những lúc nghe vậy, trong tôi có cái cảm giác xót xa như khi thấy người ta xoa
đầu mình coi mình là một lũ trẻ con. Trong những ngày du lịch bụi ngắn ngủi
này, cái cảm giác xót xa ấy lại trỗi dậy để mà càng cảm thấy nó một cách thấm
thía hơn.
V.T.N/Reds.vn
---------------
Có sự thật đau lòng là các nước đang cảnh giác với người VN khi xét nhập cảnh hoặc cư trú!
Trả lờiXóaCách đây mấy chục năm người Việt không bị săm soi như vậy; thậm chí có ông Tây còn mơ "khi thức giấc tôi được biến thành người Việt Nam"? May thay, ông ta vẫn là Tây. Không thì khốn nạn thân ông rồi!
Từ ngày có "mùa Xuân nhân tạo"...
Từng bước một, trước hết VN hãy so với Campuchia đã.
Trả lờiXóaÔng Lý Koang Diệu khi được hỏi về vn
Xóabuông nhõn câu: Hãy quên đi
DƯỚI SỰ LẢNH ĐẠN CỦA ĐẢNG THÌ VIỆT NAM THAN ÔI! NAY CÒN ĐÂU
XóaBài viết rất sâu và thấm đẫm tấm lòng với đất nước của tác giả đã truyền sang tôi cảm giác trái ngược nhau. Buồn vì người Việt ta , nếu nhìn lại lịch sử nào có kém cói chi nước Nhật, sao hôm nay lại ra nông nỗi này?. Là do Dân Việt kém cỏi hay do Nhà nước càm hãm đất nước ?. Vẫn tin có nhiều người Việt như nhà thơ VTN, nhìn nước Nhật, ngẫm lại nước mình, rổi sẽ có ngày, có người đứng lên phát cờ Nhân văn vì quốc gia Dân tộc mà vượt lên chính mình.
Trả lờiXóaLãnh đạo VN có quá nhiều người sang Nhật, không biết họ có suy nghĩ, có so sánh và có mong muốn làm sao để nước ta được như nước Nhật không nhỉ?
XóaKhông biết mấy thằng "lãnh chúa trong cung đình cs" có đọc bài viết nầy không ...để cảm thấu nhục,nhục và nhục .Buồn thay cho Dân tộc Việt phải mang ách mang gông như vậy....
Trả lờiXóaHọ biết từ lâu rồi bác nhưng kiếm chác được lúc nào hay lúc đó, chuẩn bị lót ổ ở mỹ, canada, úc, vài ba cái nhà và đống tiền trong trương mục ngân hàng, có biến thì vù như yanukovich bên Ucraina vậy huhu.
XóaĐọc bài viết trên lại nhớ đến lời phát biểu của Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt :"Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ !"
Trả lờiXóaMột cái kết buồn cho dân tộc VN
Nha cam quyen co van hoa nhan van cao setao ra xa hoi co mnhan van cao
Trả lờiXóa"Ở Nhật, giữa cá nhân và cộng đồng có niềm tin chắc chắn. Luôn luôn người ta tin rằng, những nỗ lực cá nhân của người ta sẽ được xã hội hiểu, những người tự trọng không thể làm khác" Quá đắt cho câu : Những người tự trọng không thể làm khác.
Trả lờiXóaBuồn & đau. Giá như lịch sử có thể quay ngược lại nhỉ.
Trả lờiXóaLịch sử không có thể quay ngược. Nhưng lịch sử có thể được thay đổi!
XóaTrên các phương tiện đại chúng vẫn có từ , hình ảnh " TỰ HÀO VIỆT NAM "
Trả lờiXóaTự hào cái nỗi gì ....? khi VN đang ở đâu trên bản đồ thế giới .
Vì đâu VN ra nông nỗi này , khi mức độ sáng tạo VN còn thua kém cả Lào .
Thu nhập đồng lương của VN thấp nhất Asean .
Cảm ơn t/g Vương Trí Nhàn phản ánh hình ảnh về nước Nhật bản .
Trả lờiXóaTrên vùng trời Đông Kinh
***************************
Phú Sĩ đỉnh tuyết trời Đông Kinh
Sau chuyến bay đêm thẳng không trình
Không phận vùng đất Mặt trời mọc
Minh Trị Thiên hoàng đấng quân minh
Huyền thoại kiếm thần nhúng biển thẳm
Vung gươm quần đảo nhẹ dâng mình
Động đất sóng thần thành Hiệp sĩ
Kiếm đàn thư pháp bờ quang vinh
Tokyo Xuân 1996
Nguyễn Hữu Viện
Tây Kinh quyến rũ Mùa Thu ....
***************************
Nơi Tây Kinh
Nghe tiếng chim câu *
Vẫn nhớ Tây Kinh.
In Kyoto
hearing the cuckoo
I long for Kyoto.
(In Kyoto ... - Thi Hào Bashō)
* xin dịch là CHIM CÂU thay vì chim cu ...!
Tây Kinh ơi ! ...
Thời gian như ngừng cánh
Chim câu ngừng bên khung cửa
Kyoto hiện thân Nhật Bản huyền thoại cổ xưa
Ta ghé qua Tây Kinh
Mỗi Bình minh Hòang hôn
Lặng ngắm Tây Kinh trầm tưởng tĩnh lặng
Trong Không-Thời gian ngừng chuyển động vĩnh hằng
*
Trên ngọn đồi phủ đầy cây xanh
Ẩn hiện sau ngôi nhà cổ thành
Nhịp sống thanh thản kỳ lạ
Nhẹ nhàng yên bình như trầm chậm lại
Trả lại cho Đông Kinh hối hả vội vàng !
Cố đô Kyoto Kinh thành Bình an
Cung điện Hoàng gia Thiên hoàng
*
Trả lờiXóaNhật Sử chính là Sử lịch Kyoto
Cố đô Hòang thành nuôi dưỡng qua hơn Ngàn năm Sử
Quần thể đền chùa đền thờ miếu đền
Ngôi đền dát bạc dát vàng
Cung điện vườn thượng uyển
Xen lẫn ngôi đền đạo Phật bên đền Thần đạo
Lễ hội Kỷ niệm Quá khứ vinh quang Tây Kinh Kyoto
Từ Thời kỳ Bình An cho đến Thời kỳ Minh Trị
Cho Nhật Bản siêu thóat khỏi Văn minh Đại Hán
Dễ vong bản vong quốc tiêu tan ...
*
Những chiếc cổng vòm đền
Những tảng đá tròn kê thành lối đi trên mặt ao phẳng lặng
Lâu đài nguy nga cổ kính trong đất Thần kinh
Thanh Thủy Tự Kiyomizu gần như kỳ quan thế giới
Bây giờ Mùa Thu - Kiyomizu khoác lên mình ngàn cây phong lá đỏ
Kim Các Tự ! Ô Chùa Vàng !
Danh lam thắng cảnh hấp dẫn nhất xứ Phù Tang
Khối kiến trúc hòanh tráng mênh mang
Ấn tượng lấp lánh chiều tàn
Bồng lai tiên cảnh
Trời vào Chớm Thu hàng ngàn cây Phong thắp lửa đỏ trên cành
Hàng cây Hoa Anh Đào rụng gần hết lá
Báo hiệu Mùa Lá đỏ lại về
*
Trong quán phố cổ lộng lẫy kiêu sa
Kỳ nữ Geiko trong kimono lộng lẫy sắc mầu
Mái tóc trâm hoa đánh đàn shamisen
Quỳ gối tận tình rót rượu lưu luyến khách mời
Chỉ nơi đây tái sinh lại làm người
Bánh xe Luân hồi có thực
Quay giữa trần gian điên dại
Như trong hỏa ngục thiên thai
Nếm lại hương vị bồng lai
Mềm mại như da thịt nàng kỷ nữ đài các
Em quyện anh thành Ngàn cánh Hạc
Bay về đỉnh Phú Sĩ tuyết phủ ngàn năm nhẹ rơi Anh Đào
Trần gian như canh tân mới lại
Ngàn lời Dân ca Nhật Bản thì thầm
Qua tiếng Nhật cầm thổn thức nhật nguyệt
Mỗi giọng nói kỷ nữ geisha nhập hồn
Ôi nét quyến rũ cố đô Kyoto Tây Kinh !
*
Quán nhỏ bên tách hồng trà
Trà đạo khí phách hiên ngang
Trong khu phố kỷ nữ Geisha hương phấn mơ màng
Nhìn Lửa Thiêng thắp sáng trên núi
Dẫn đường cho bao Linh hồn tìm đường về Mái Nhà Xưa
Tìm về Cố hương Cố quận - Thiên đàng
*
Kyoto ! Tây Kinh !
Cố đô mệnh danh là Phố Hoa Anh Đào
Rừng Anh Đào nét trầm mặc nở rộ khi Xuân
Trên đường lên Chùa Bạc
Hoa Anh Đào màu hồng nhạt màu trắng
Nhớ Huế ngày xưa ...
Đêm Đại nội trăng Hòang cung
Gợi vẻ đẹp thơ mộng Cố đô Huế bên bờ Hương Giang
Cố đô Kyoto Tây Kinh vẫn bảo tồn giữ gìn
Phát huy Giá trị Văn hóa Truyền thống
Mang phong cách Dân tộc Nhật hòa nhập không hòa tan
Cố đô Kyoto Tây Kinh vẫn sống còn trường tồn
Quảng Đảo - Trường Kỳ buổi Hòang hôn Nhân lọai
Bom nguyên tử không muốn nỡ hủy diệt cuộc sinh
Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình Kyoto Tây Kinh
*
Kyoto ! Cố đô Tây Kinh !
Ánh đèn lồng dẫn đến quán trà
Nếu là hoa, xin làm lòai Hoa Anh Đào
Nếu là Người, xin làm Hiệp sĩ đạo Anh hào !
Lưu bạt ngang qua Tây Kinh như cánh Đại bàng
Như nét thư pháp Nhật tấp thóang bay ngang
Từ đỉnh Phú Sĩ sơn tuyết phủ
Quyện hoa nắng Thái dương thành bão lốc xóay mù
*
Trên chuyến không trình trở lại Thủ đô Ánh Sáng
Lòng lữ khách vẫn chưa hết bàng hòang
Tây Kinh quyến rũ Mùa Thu ....
Rời Tây Kinh Kyoto
Nghe tiếng Chim Câu Hòa bình
Vẫn nhớ Tây Kinh
Bỗng nghe trăng Hòang cung Đại nội
Huế đất Thần kinh
Bỗng nghe trăng Hòang thành Thăng Long
Thời gian còn hơn Thập kỷ Ngàn năm
Tạm biệt Tây Kinh Kyoto...!
Nghe tiếng Chim Câu
Vẫn nhớ da diết Hà Nội !....
Thăng Long sắp Ngàn năm tuổi ?
Có biết bảo tồn Văn hóa truyền thống như Kyoto Tây Kinh ? ? ?
NGUYỄN HỮU VIỆN