LÀM THẾ NÀO ĐỂ NÔNG DÂN CÓ THỂ TRỞ THÀNH CHỦ THỂ
ĐÍCH THỰC CỦA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN HIỆN NAY?
* PGS.TS VŨ TRỌNG KHẢI
Hiện
nay, nền nông nghiệp nước ta còn chiếm khoảng 20% GDP hằng năm của cả nền kinh
tế, nhưng phải sử dụng 58 – 60% lực lượng lao động xã hội, để nuôi sống khoảng
70% dân cư của cả nước. Mấy con số này đã khái quát tình trạng hiện nay là:
Nông dân còn cực khổ, nông thôn còn rất nghèo, nông nghiệp còn rất lạc hậu. Vậy
làm thế nào để nông dân trở thành chủ thể của quá trình phát triển trong giai
đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay, nhằm nâng
cao đời sống vật chất và văn hóa của họ, xóa bỏ dần khoảng cách về trình độ
phát triển giữa nông thôn và đô thị?
1. Nông dân – họ là ai?
1.1.
Thông thường, người ta vẫn nghĩ những người lao
động làm việc và sống bằng nghề nông là nông dân. Có đúng như vậy không? Trước
hết, để trả lời câu hỏi này, cần có cách hiểu thống nhất thế nào là ngành nông
nghiệp. Ngành nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất, lấy sinh vật làm đối tượng
sản xuất; lao động của con người tác động vào sinh vật – đối tượng sản xuất, phải
phù hợp với quy luật sinh trưởng, phát triển của chúng.
Như thế, sản xuất nông nghiệp bao gồm các ngành trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi, trồng thủy, hải sản. Sản phẩm của nó là nhu yếu phẩm của con người, trước hết là thực phẩm (bao gồm cả lương thực) và nguyên liệu của các ngành công nghiệp, như dệt – may, chế biến cao su, nhiên liệu sinh học…; Theo nghĩa rộng hơn, người ta còn coi ngành khai thác, đánh bắt thủy, hải sản cũng là một bộ phận của ngành nông nghiệp.
PGS.TS Vũ Trọng Khải |
Như thế, sản xuất nông nghiệp bao gồm các ngành trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi, trồng thủy, hải sản. Sản phẩm của nó là nhu yếu phẩm của con người, trước hết là thực phẩm (bao gồm cả lương thực) và nguyên liệu của các ngành công nghiệp, như dệt – may, chế biến cao su, nhiên liệu sinh học…; Theo nghĩa rộng hơn, người ta còn coi ngành khai thác, đánh bắt thủy, hải sản cũng là một bộ phận của ngành nông nghiệp.
Tất cả
những người lao động trong ngành nông nghiệp theo quan niệm như trên, có phải
là nông dân?
1.2.
Lý thuyết
Mác – Lênin:
Trước
đây, đứng trên quan điểm của C.Max về đấu tranh giai cấp để xóa bỏ quan hệ chủ
- thợ, quan hệ người bóc lột người, người ta chia những người hoạt động trong
ngành nông nghiệp thành các loại sau:
·
Cố nông là những người không có ruộng đất – tư
liệu sản xuất cơ bản không thể thay thế được của ngành trồng trọt. Họ phải đi
làm thuê hoặc nhận “phát canh thu tô” và “nuôi rẽ” cho người có nhiều ruộng đất
và đàn gia súc, để có thu nhập ở mức tối thiểu, chỉ đủ để tồn tại, duy trì sự sống
của mình. (Tuy rằng hiện nay, đã xuất hiện nghề trồng trọt không dùng đất,
nhưng chưa phổ biến,nên ruộng đất vẫn là tư liệu sản xuất chưa thể bị thay thế
của nghề nông).
·
Bần nông là người có ít ruộng đất, vẫn phải đi
làm thuê hoặc nhận “phát canh thu tô” hoặc “nuôi rẽ”, để có thể sống ở mức thấp.
·
Trung nông là người có đủ ruộng đất hoặc đàn gia
súc, tự lao động trên mãnh đất hoặc chuồng trại của mình để sống và có tích lũy,
tuy không nhiều, có xu hướng phát triển thành phú nông.
·
Phú nông là người có nhiều ruộng đất hoặc đàn
gia súc lớn, nên họ chỉ làm quản lý và sử dụng sức lao động làm thuê. Vì thế,
người ta coi phú nông là tư sản kinh doanh nông nghiệp, bóc lột sức lao động của
người làm thuê.
·
Địa chủ phong kiến là người có nhiều đất hoặc có
đàn gia súc lớn, nhờ việc tước đoạt ruộng đất của người khác bằng quyền lực phi
thị trường. Họ không quản lý và càng không lao động trực tiếp trên đồng ruộng
và chuồng trại của mình, mà “phát canh thu tô” hoặc “nuôi rẽ” đàn gia súc cho
những người lao động nông nghiệp không có hoặc có ít ruộng đất, gia súc. Họ được
coi là kẻ bóc lột người lao động bằng địa tô. Còn người lao động nhận “phát
canh thu tô” và “nuôi rẽ” được gọi là tá điền.
Như vậy, nông dân chỉ bao gồm những người
thuộc thành phần cố nông, bần nông và trung nông.
Vì thế, cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra để
xóa bỏ giai cấp địa chủ phong kiến và phú nông, lấy ruộng đất và đàn gia súc của
họ chia cho cố nông và bần nông – những tá điền, thực hiện “người cày có ruộng”.
Nhưng theo quan điểm của Lênin, quyền tư hữu nhỏ về ruộng đất và đàn gia súc của
những người lao động được gọi là nông dân này lại từng ngày từng giờ đẻ ra chủ
nghĩa tư bản, bằng quá trình phân hóa giàu – nghèo. Cho nên sau khi thực hiện
người cày có ruộng, người ta lập tức tập thể hóa quyền sở hữu ruộng đất, xóa bỏ tư hữu nhỏ của nông dân để lập nên các
hợp tác xã với tư cách là chủ sở hữu ruộng đất theo quan điểm của Lênin. Người
nông dân trở thành xã viên hợp tác xã, mà thực chất là người làm thuê cho một
pháp nhân (hợp tác xã) vô trách nhiệm do “cha chung không ai khóc”. Điều đó đồng
nghĩa với việc xóa bỏ nền kinh tế hàng hóa nhỏ trong nông nghiệp, nên nền kinh
tế thị trường không còn đất để hình thành và phát triển. Nhưng khi chuyển sang
nền kinh tế thị trường, lý thuyết phát triển này đã bị thực tế bác bỏ, như ta
đã thấy ở tất cả các nước theo chủ nghĩa Lênin, trong đó có Việt Nam .
1.3.
Nông
dân trong nền kinh tế thị trường
Trong
kinh tế thị trường, “tế bào” cấu tạo nên nó là các tổ chức kinh doanh tự chủ, tồn
tại dưới nhiều hình thức, như hộ kinh doanh cá thể, các loại hình doanh nghiệp,
bao gồm: doanh nghiệp cá nhân, trách nhiệm vô hạn do 1 người làm chủ sở hữu và
quản lý, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn có 1 hay nhiều thành
viên, doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần không hoặc có niêm yết trên thị
trường chứng khoán, công ty dự phần .v.v…
Đặc điểm
quan trọng nhất của các tổ chức kinh doanh là hoạt động vì mục tiêu tối đa hóa
lợi nhuận, có quyền tự do kinh doanh bất kỳ ngành hàng nào mà pháp luật không cấm,
có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về lời – lỗ trong kinh doanh. Vì thế trong
cơ cấu tổ chức của nó, không có doanh nghiệp cấp trên, doanh nghiep cấp dưới
như các tổ chức khác (bộ máy nhà nước, các hội đoàn…). Cho nên, các tổ chức
kinh doanh được coi là “tế bào” của nền kinh tế thị trường. Mặt khác, trong quá
trình phát triển, do qui luật kinh tế về lợi thế theo qui mô, trong các ngành
công nghiệp và dịch vụ, quá trình tích tụ và tập trung tư bản diễn ra nhanh
chóng nhờ sự tiến bộ vượt bậc của khoa học – công nghệ, đã tạo nên những tổ chức
kinh doanh cực lớn, đa ngành, đa quốc gia. Nhưng điều này đã không diễn ra
trong nông nghiệp. Vì sao vậy? Bởi vì, đặc điểm quan trọng nhất của kinh doanh
sản xuất nông nghiệp là tính sinh học; Đối tượng sản xuất nông nghiệp là sinh vật,
cây và con. Do vậy, muốn đạt năng suất, chất lượng nông phẩm và hiệu quả kinh tế
cao, con người phải kiểm soát chặt chẽ toàn bộ quá trình sản xuất mang tính
sinh học diễn ra trên đồng ruộng, ao nuôi, chuồng trại, chăm sóc tỉ mỉ đến từng
cá thể cây, con, bằng các tác động kỹ thuật đúng lúc, đúng cách theo qui luật
sinh học, “nhất thì nhì thục”. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi và chỉ
khi(i) người lao động nông nghiệp vừa có tinh thần trách nhiệm cao, vừa nắm vững
kỹ thuật nuôi, trồng đối với từng loại cây, con và(ii) qui mô sản xuất (diện
tích canh tác, nuôi trồng, đầu con gia súc, gia cầm) vừa với tầm hạn quản lý của
những người lao động trong mỗi đơn vị sản xuất nông nghiệp.
Vì thế
các loại hình tổ chức sản xuất phổ biến trong nông nghiệp không giống trong các
ngành kinh tế khác. Trong nông nghiệp, những tổ chức kinh doanh có quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm lời, lỗ với tư cách là “tế bào”, được gọi là trang trại.
Nói cách khác, trang trại là tổ chức kinh doanh tự chủ trong nông nghiệp. Cho
nên, trang trại cũng có nhiều loại hình như trong doanh nghiệp ở các ngành kinh
tế khác, thường bao gồm: trang trại gia đình (kinh tế nông hộ), trang trại hợp
danh, trang trại trách nhiệm hữu hạn có 1 hay nhiều thành viên, trang trại cổ
phần, trang trại nhà nước (doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp), trang trại
dự phần … Tuy nhiên, do đặc điểm của sản xuất mang tính sinh học, nên trang trại
gia đình là hình thức tổ chức kinh doanh nông nghiệp tốt nhất do thỏa mãn được
2 điều kiện nói trên.
Bởi vì,
trong trang trại gia đình, người chủ và các thành viên vừa là đồng chủ sở hữu vừa
là người quản lý và trực tiếp lao động trên đồng ruộng, ao nuôi, chuồng trại…
Qui mô sản xuất và khối lượng nông sản hàng hóa tuy ngày càng lớn do tích tụ ruộng
đất nhưng nhờ cơ giới hóa, tự động hóa sản xuất, nên trang trại gia đình vẫn chủ
yếu sử dụng sức lao động của nông hộ. Nếu cần, trang trại gia đình có thể thuê
mướn thêm sức lao động trong lúc thời vụ khẩn trương, nhưng người chủ quản lý
trang trại vẫn trực tiếp kiểm soát được chất lượng làm việc của người làm thuê
và họ không bao giờ thuê người quản lý. Vì thế, năng suất, chất lượng nông phẩm,
hiệu quả kinh tế của trang trại gia đình cao hơn các loại trang trại khác và trở
thành lực lượng sản xuất nông phẩm hàng hóa chủ yếu ở tất cả các quốc gia, kể cả
ở các nước có kinh tế thị trường phát triển nhất. Vì vậy, chỉ có những người
lao động trong trang trại gia đình (kinh tế nông hộ), bao gồm người chủ gia
đình và những người lao động thành viên khác, mới được gọi là NÔNG DÂN. Họ tự
“thuê mướn” và “bóc lột” sức lao động của chính mình. Họ là những đồng sở hữu
chủ trang trại, nhưng không nhất thiết là chủ sở hữu đất đai hay chủ sở hữu quyền
sử dụng đất. Trang trại gia đình có thể thuê đất canh tác của người chủ sở hữu
đất. Ngoài ra, các trang trại hợp danh, trang trại cá nhân do người chủ sở hữu
quản lý trực tiếp, phải thuê mướn sức lao động để thực hiện khâu sản xuất mang
tính sinh học, với qui mô vừa với tầm hạn quản lý, không phải thiết lập cấp quản
lý trung gian tức là không phải thuê người quản lý, cũng là một loại trang trại
có thể đạt hiệu quả kinh tế cao. Những loại trang trại khác, như trang trại
trách nhiệm hữu hạn, trang trại cổ phần, trang trại nhà nước, có qui mô lớn, sử
dụng nhiều người lao động làm thuê, dù đạt trình độ cơ giới hóa cao, nên phải
thiết lập một hay vài cấp quản lý trung gian, không thể đạt hiệu quả kinh tế,
thậm chí phá sản. Nên chúng không tồn tại phổ biến như các doanh nghiệp lớn
trong các ngành kinh tế khác. Để có thể tồn tại và phát triển, các loại trang
trại này phải áp dụng hình thức trang trại dự phần trong các khâu sản xuất mang
tính sinh học, thực chất là tái lập trang trại gia đình trong lòng trang trại
đó. Theo đó, trang trại lớn chỉ thực hiện các dịch vụ đầu vào – đầu ra của sản
xuất nông nghiệp cho trang trại dự phần (thường gọi là khoán hộ) theo cơ chế thị
trường, thuận mua, vừa bán. Còn các trang trại dự phần đầu tư một phần hay toàn
bộ tiền vốn, sức lao động để thực hiện các khâu sản xuất mang tính sinh học
trên đồng ruộng, ao nuôi, chuồng trại, theo hợp đồng kinh tế ký với trang trại
lớn. Như vậy, trang trại dự phần là một hình thức tổ chức kinh doanh, theo đó,
hai hay nhiều chủ thể cùng đầu tư vốn, sức lao động trong cùng một quá trình
kinh doanh (ở đây là sản xuất nông nghiệp) và phân chia lợi ích giữa các chủ thể
theo thỏa thuận, nhưng không làm nảy sinh một tổ chức kinh doanh mới, có tư
cách pháp lý hay pháp nhân, mà sử dụng tư cách pháp lý hiện hữu của một trong
các chủ thể tham gia đầu tư. Điều này đã được thực tế chứng minh ở công ty cổ
phần giống bò sữa Mộc Châu hiện nay và nông trường quốc doanh Sông Hậu trước
đây. Như vậy, những chủ đầu tư trong các loại trang trại có qui mô lớn, sử dụng
sức lao động làm thuê có thể đồng thời là người lao động quản lý hoặc đơn thuần
chỉ là nhà tư sản đầu tư vốn kinh doanh nông nghiệp. Họ không phải là nông dân.
Còn những người lao động làm thuê cho tất cả các loại hình trang trại, tuy là
người lao động nông nghiệp, dù có kỹ năng cao, sống bằng lao động nông nghiệp,
cũng không phải là nông dân. Họ là công nhân nông nghiệp như công nhân làm việc
trong các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp.
Ngoài
ra còn có những nhà đầu tư vốn khác trong nông nghiệp, như mua đất canh tác,
mua tư liệu sản xuất để cho các trang trại thuê. Đó là một hoạt động bình thường
trong nền kinh tế thị trường, và chính là hình thức cho thuê tài chính, rất phổ
biến trong các ngành kinh tế, nhất là trong công nghiệp (đất để lập khu công
nghiệp và khu dân sinh cho các doanh nghiệp thuê xây dựng nhà xưởng, kho bai …,
làm nhà cho thuê). Họ là nhà tư sản đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực mà pháp
luật không cấm. Họ có nhiều ruộng đất theo cơ chế kinh tế thị trường, không phải
bằng bạo lực tước đoạt ruộng đất của người khác như trong thời phong kiến và thực
dân. Như vậy, trong kinh tế thị trường, chỉ có những chủ trang trại gia đình
(bao gồm chủ hộ và các thành viên lao động khác) mới được coi là nông dân. Những
người khác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và sống bằng thu nhập từ nông
nghiệp, chỉ có thể là nhà đầu tư, nhà tư sản kinh doanh và nhà quản lý, công
nhân làm thuê.
Vì vậy,
trang trại gia đình là lực lượng chủ yếu trong sản xuất nông sản, nên nông dân
là lực lượng chiếm tỉ lệ đông đảo trong ngành kinh tế nông nghiệp. Họ cần và có
thể trở thành lực lượng quan trọng nhất của quá trình phát triển nông nghiệp,
nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nói theo cách
chính thống của nhà nước hiện nay, nông dân phải là chủ thể của tiến trình xây
dựng nông thôn mới. Nhưng không phải đương nhiên người nông dân có thể trở
thành chủ thể của quá trình ấy.
2.
Xây dựng
nông thôn mới theo cơ chế thị trường với vai trò chủ thể của người nông dân.
Trước hết,
phải nhận thức rằng, sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững hay
xây dựng nông thôn mới là một tiến trình dài lâu, không phải là một danh hiệu
thi đua. Quá trình ấy chỉ kết thúc khi không có sự cách biệt giữa thành thị và
nông thôn về đời sống vật chất và văn hóa. Nhưng khi đó, quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước vẫn tiếp diễn trong đời sống của mỗi quốc gia. Nội dung của xây dựng
nông thôn mới gồm 4 quá trình: i) công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn; ii) đô thị hóa nông thôn; iii) bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên
và nhân văn; iiii) kiểm soát dân số và di dân cả về số lượng và chất lượng. Bốn
nội dung này phải được quán triệt trong các chính sách, kế hoạch và giải pháp
phát triển nông thôn (xây dựng nông thôn mới)
Quá
trình này chỉ có thể diển ra với hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường ở mức
cao nhất nếu tuân theo cơ chế thị trường và người nông dân là chủ thể đích thực
của quá trình đó.
2.1.
Nông
dân và trang trại
Nông
dân phải trở thành chủ các trang trại gia đình, trang trại dự phần sản xuất
nông phẩm hàng hóa, có qui mô lớn về đất đai, ao nuôi, đàn gia súc, gia cầm, nhờ
cơ giới hóa, hiện đại hóa và tích tụ ruộng đất bằng việc mua bán, thuê mướn,
sáp nhập các trang trại nhỏ… Những “thanh nông trai điền” phải thay thế “lão
nông tri điền”. Nông dân trẻ tuổi phải được đào tạo thành nông dân chuyên nghiệp,
thay thế nông dân “cha truyền con nối”, có năng lực quản lý trang trại gia đình
và các hợp tác xã của họ theo cơ chế thị trường
2.2.
Hợp tác
xã trong nông nghiệp
Trong mỗi
vùng nông nghiệp sinh thái, nhiều trang trại cùng sản xuất một hay một số loại
nông sản hàng hóa. Chúng cùng có nhu cầu chung về các yếu tố đầu vào của sản xuất,
như giống, phân bón, thuốc bảo vệ cây trồng, vật nuôi,… và về tiêu thụ những loại
nông sản hàng hóa của mình. Nếu mỗi trang trại tư đảm bảo nhu cầu ở cả đầu vào
– đầu ra, sẽ không có hiệu quả. Do vậy, các trang trại cần thực hiện liên kết
ngang để tạo lập các hợp tác xã. Hợp tác xã có chức năng cung ứng dịch vụ đầu
vào – đầu ra cho các trang trại, không thay thế trang trại trong các khâu sản
xuất mang tính sinh học. Nó được sinh ra để thỏa mãn nhu cầu phát triển kinh
doanh của các trang trại thành viên. Trong giai đoạn đầu, hợp tác xã có thể làm
khâu trung gian, cầu nối giữa trang trại và doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ
nông sản để làm tăng vị thế của người nông dân trong quan hệ mua – bán với nhà
doanh nghiệp. Đến giai đoạn phát triển cao, hợp tác xã sẽ có đủ năng lực về vật
chất và nhân lực để chế biến và tiêu thụ nông sản của các trang trại thành viên
và các trang trại khác trong vùng, trở thành đối thủ cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong chế biến, tiêu thụ nông sản. Nhờ đó, vị thế và lợi ích của nông
dân được nâng cao trên thương trường. Cần lưu ý là, người nông dân sản xuất tự
cấp tự túc hay sản xuất hàng hóa nhỏ với 5 – 7 công đất, vài chục con gia súc,
gia cầm, không có nhu cầu gia nhập hợp tác xã và càng không có khả năng quản lý
hợp tác xã. Chỉ có những nông dân và trang trại sản xuất nông sản hàng hóa có
qui mô lớn mới cần và có khả năng tạo dựng và quản lý hợp tác xã của mình, biết
thuê mướn các nhà quản lý và kỹ thuật chuyên nghiệp, có trình độ cao để làm việc
trên các vị trí khác nhau của hợp tác xã theo cơ chế thị trường. Như vậy, hợp
tác xã sẽ phát triển theo qui mô lớn, trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Nhờ có
hợp tác xã, việc liên kết dọc theo chuỗi giá trị trong mỗi ngành hàng nông sản
được thiết lập, mang lại lợi ích cao cho nông dân, vì nông dân là chủ thể quan
trọng nhất, tích cực nhất của mỗi liên kết này.
2.3.
Doanh
nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản và tổ chức sản xuất theo hợp đồng.
Một đặc
điểm khác của sản xuất nông nghiệp trong kinh tế thị trường là dù có qui mô lớn
đến đâu, một trang trại không thể đáp ứng nhu cầu của một tổ chức chế biến,
tiêu thụ nông sản. Do đó, nhiều trang trại cùng sản xuất một loại nông sản hàng
hóa để cung ứng cho một cơ sở chế biến, tiêu thụ. Điều đó tất yếu hình thành mối
liên kết dọc giữa doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản với các trang trại một
cách trực tiếp hay gián tiếp qua các hợp tác xã của nông dân. Trong đó, doanh
nghiệp đóng vai trò “nhạc trưởng” của quá trình liên kết theo chuỗi giá trị
ngành hàng, từ trang trại đến bàn ăn (hay mạn tàu xuất cảng). Bởi vì, doanh
nghiệp có ưu thế so với trang trại trong việc giải quyết 3 vấn đề: (i) thị trường
cung ứng đầu vào, tiêu thụ nông sản (đầu ra) và xây dựng thương hiệu; (ii) ứng
dụng công nghệ mới, thực hiện sản xuất và chế biến nông sản theo GAP và HCCP;
(iii) vốn. Vai trò “nhạc trưởng” của doanh nghiệp thể hiện qua việc tổ chức sản
xuất theo hợp đồng (không phải hộp đồng sản xuất) trong mỗi chuỗi giá trị ngành
hàng nông sản, bằng các hoạt động sau:
-
Cung ứng đủ giống xác nhận phù hợp với nhu cầu của
thị trường cho các trang trại liên kết.
-
Hướng dẫn nông dân thực hiện qui trình và tiêu
chuẩn sản xuất nông sản theo GAP đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng, cho người
sản xuất và cho môi trường, nhờ đội ngũ khuyến nông của doanh nghiệp cùng ăn,
cùng ở, cùng làm với nông dân.
-
Tự mình hay liên kết với các doanh nghiệp khác
trong việc cung ứng các loại vật tư cho các trang trại dưới hình thức tạm ứng
và thanh toán khấu trừ khi mua nông sản.
-
-
Liên kết với ngân hàng thương mại để cung ứng vốn
tín dụng với lãi suất có lợi cho nông dân, thông qua việc cho vay trực tiếp hay
gián tiếp qua việc doanh nghiệp ứng trước giống và vật tư sản xuất cho trang trại.
Chính
những hoạt động này của doanh nghiệp đã tạo nên các cánh đồng hay trại chăn
nuôi, ao nuôi liên kết theo kiểu “cùng trà giống, liền đồng, khác chủ”,
làm chân hàng có qui mô lớn, ổn định với
chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của công
nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ.
-
Có cơ sở chế biến, bảo quản và tổ chức kênh tiêu
thụ, được áp dụng công nghệ cao, để mua hết nông sản của các trang trại tham
gia chuỗi giá trị ngành hàng, theo hợp đồng kinh tế đã ký kết.
-
Thực hiện cơ chế phân chia lợi ích công khai,
minh bạch, hài hòa giữa các chủ thể tham gia chuỗi giá trị, trước tiên là giữa
nhà nông và nhà doanh nghiệp.
-
Liên kết với các nhà khoa học công nghệ và quản
lý ở các viện, trường để giải quyết các vấn đề kinh tế, quản lý, kỹ thuật, nảy
sinh ở tất cả các khâu trong chuỗi giá trị ngành hàng, từ tạo giống, xác định
cơ cấu mùa vụ, kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, chế tạo và sử dụng máy móc thiết
bị ở tất cả các khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, đến nghiên cứu thị trường,
chiến lược sản phẩm, marketing, xây dựng thương hiệu, quản lý chuỗi, cơ chế
phân chia lợi ích và rủi ro giữa các chủ thể tham gia chuỗi…
Như
vậy, mỗi loại nông sản hàng hóa chủ lực của quốc gia, ở mỗi vùng nông nghiệp sinh thái, đều
được tổ chức sản xuất theo hợp đồng và quản lý theo chuỗi giá trị, với vị thế
bình đẳng giữa các chủ thể, trước hết là giữa nhà nông và nhà doanh nghiệp chế
biến, tiêu thụ nông sản trên thị trường trong và ngoài nước. Đó chính là mô
hình quản lý nông nghiệp phổ biến và đạt hiệu quả cao ở tất cả các nước phát
triển.
3.
Nhà nước
kiến tạo phát triển nông thôn
3.1.
Nguyên
tắc chung
Luật
pháp và chính sách của nhà nước tác động và phân biệt đối xử (khuyến khích hay
hạn chế kinh doanh) theo các đối tượng là ngành hàng và vùng nông nghiệp sinh
thái, tuyệt đối không theo đối tượng là chủ thể kinh doanh.
Luật
pháp và chính sách bảo đảm bình đẳng cạnh tranh trong kinh doanh giữa các chủ
thể kinh doanh, chế tài nghiêm khắc các chủ thể kinh doanh gian lận, như làm
hàng giả, hàng nhái, kém chất lượng, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, làm ô nhiễm
môi trường, trốn thuế, bội tín trong thực thi hợp đồng kinh tế…
Luật
pháp và chính sách bảo đảm việc phân phối nguồn lực đầu vào của sản xuất theo
cơ chế thị trường. Các nguồn lực như đất đai, tiền vồn, sức lao động, vật tư
nguyên, nhiên vật liệu, trang thiết bị, máy móc… được “chảy” vào các tổ chức có
khả năng sử dụng chúng đạt hiệu quả cao nhất; đồng thời, luật pháp, chính sách
cũng bảo đảm việc tiêu thụ nông sản, với gía cả hợp lý, có lợi nhất cho cả người
bán và người mua, xóa bỏ triệt để cơ chế xin – cho trong phân phối nguồn lực và
tiêu thụ hàng hóa.
3.2 Quản lý vĩ mô của nhà nước
Xác định
các loại nông sản hàng hóa chủ lực của quốc gia và của mỗi vùng nông nghiệp
sinh thái, không theo đơn vị hành chính (tỉnh, thành phố, huyện, xã), để có
chính sách tác động đúng hướng, làm cho cả doanh nghiệp và trang trại cùng đầu
tư theo chiều sâu.
Xây dựng
khung pháp lý cho thị trường mua – bán, cho thuê quyền sử dụng ruộng đất, ao
nuôi, chuồng trại… diễn ra thuận lợi, công khai, minh bạch để tạo ra các trang
trại sản xuất nông sản hàng hóa qui mô lớn, được cơ giới hóa, áp dụng công nghệ
cao theo GAP. Không thể thực hiện việc “dồn điền đổi thửa” theo kiểu “đất đổi đất”
như hiện nay, mà phải áp dụng việc mua, bán đất nông nghiệp theo cơ chế thị trường,
thuận mua, vừa bán.
Xây dựng
các khu đô thị nhỏ ở các vùng nông nghiệp sinh thái, bao gồm khu công nghiệp –
dịch vụ và khu dân sinh. Điều đó tạo lập được kế sinh nhai ổn định, lâu dài,
“an cư, lạc nghiệp” cho những người nông dân kém khả năng sản xuất nông nghiệp
theo cơ chế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tích tụ ruộng đất của
những nông dân giỏi nghề nông, đồng thời, hạn chế tối đa việc di dân tự phát từ
nông thôn vào các khu công nghiệp ở các thành phố lớn như hiện nay.
Trong
thời gian qua, chúng ta chỉ đầu tư xây dựng khu công nghiệp, ở các thành phố lớn,
không có khu dân sinh theo kiểu đô thị văn minh với các tiện ích công cộng, như
nhà ở, trường học, nhà trẻ, bệnh viện, chợ, cửa hàng, nhà văn hóa, vệ sinh môi
trường…
Do
vậy, việc di dân tự phát từ nông thôn đã tạo ra các siêu đô thị với đầy rẫy những
nan đề về kinh tế, xã hội và môi trường. Luật pháp và chính sách mới chú trọng
bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư mà chưa bảo vệ đúng mức lợi ích chính đáng của
người làm thuê trong các khu công nghiệp. Do vậy, người nông dân ra thành phố
làm công nhân với tâm lý tạm bợ, vì thu nhập rất bấp bênh, đời sống vật chất,
văn hóa nghèo nàn, môi trường sống bị ô nhiễm nặng. Họ trở thành công dân hạng
2, sống trong các nhà ổ chuột, không được hưởng các dịch vụ công, như giáo dục,
y tế… Khi sinh con, họ lại phải gửi chúng về quê, nhờ ông bà nuôi dạy hộ. Hơn nữa,
khi bước vào tuổi trên dưới 40, không còn trẻ để chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng
lại đã già so với áp lực công việc ở các khu công nghiệp, nên họ bị giới chủ sa
thải để tuyển lớp công nhân mới trẻ hơn. Khi đó, nan đề về kinh tế, xã hội là hết
sức lớn hầu như không có giải pháp khắc phục. Mặt khác, nhiều khi họ còn bị giới
chủ và quản lý đối xử tệ bạc, coi thường nhân phẩm. Uất ức dồn nén lâu ngày, chỉ
cần có sự kiện làm “giọt nước tràn ly”, họ có thể trở nên hung bạo, như đã xảy
ra trong thời gian qua. Họ luôn ở tư thế, nếu có biến động, gặp khó khăn, lại
trở về nông thôn, chia lại công việc vốn đã quá ít với người nông dân. Điều đó
đã cản trở quá trình tích tụ ruộng đất.
Các
khu đô thị nhỏ, bố trí phân tán ở các vùng nông nghiệp sinh thái không chỉ tạo
việc làm, thu hút sức lao động dôi dư trong nông nghiệp mà còn đóng vai trò cơ
sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu dịch vụ đầu vào - đầu ra của sản xuất nông
nghiệp.
Cần xóa
bỏ các chính sách bao cấp theo cơ chế xin – cho. Ví dụ: chính sách miễn thủy lợi
phí đã buộc các trang trại, hợp tác xã phải xin cung cấp dịch vụ tưới - tiêu nước
từ các công ty thủy nông; còn công ty thủy nông phải xin cơ quan quản lý tài
chính của nhà nước cấp bù kinh phí hoat động. Điều đó làm nảy sinh tiêu cực và
giảm chất lượng dịch vụ tưới - tiêu nước.
Cuối cùng là nông dân và nông nghiệp chịu thiệt thòi. Chính sách tài trợ lãi suất
tín dụng cho doanh nghiệp mua tạm trữ lúa gạo cũng vậy, gây lãng phí tiền thuế
của dân mà nông dân trồng lúa không được hưởng lợi. Chỉ có doanh nghiệp kinh
doanh mua – bán lúa gạo được hưởng lợi từ chính sách này. Mặt khác, cũng cần
xóa bỏ sự độc quyền kinh doanh của một số doanh nghiệp và xóa bỏ các hiệp hội
có vai trò “cánh tay nối dài” của cơ quan quản lí nhà nước đang tồn tại ở một số
ngành hàng nông sản.
Trong
khuôn khổ “hộp xanh” của WTO, nhà nước cần tài trợ kinh phí cho các hoạt động
như: (i) Đào tạo thanh niên nông dân thành nhà nông chuyên nghiệp, đủ khả năng
quản lý trang trại và hợp tác xã của mình theo cơ chế kinh tế thị trường; (ii)
Tài trợ kinh phí khuyến nông, lãi suất tín dụng, miễn hay giảm thuế thu nhập
doanh nghiệp cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các cơ sơ chế biến, bảo quản
nông sản áp dụng công nghệ cao, đóng vai trò “nhạc trưởng” trong chuỗi giá trị
ngành hàng nông sản chủ lực, ở những vùng sản xuất hàng hóa lớn theo qui hoạch
của nhà nước; (iii) Tài trợ kinh phí cấp giấy chứng nhận sản xuất theo GAP, nhất
là Global GAP cho các hợp tác xã và trang trại trong 2-3 năm đầu; (iv) Tài trợ kinh
phí cho các hợp tác xã qui mô lớn thuê giám đốc và các nhà quản lý, kỹ thuật
chuyên nghiệp có trình độ cao trong 2-3 năm đầu; (v) Đầu tư kinh phí cho các đề
tài khoa học công nghệ và quản lý giúp cho việc giải quyết các vấn đề nảy sinh
trong các khâu hoạt động của chuỗi giá trị ngành hàng chủ lực ở các vùng nông
nghiệp sinh thái do nhà nước quy hoạch.
Thực hiện
đồng bộ những giải pháp nêu trên chính là tạo điều kiện cho người nông dân trở
thành chủ thể đích thực của sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn, bền vững,
hay là xây dựng nông thôn mới, trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo cơ chế kinh tế thị trường.
VTK (Chuyên
gia độc lập vềKT NN và PTNT)
--------------------
Nhiều vấn đề BẤT CẬP trong vấn đề ruộng đất của NND cách đây 230 năm vẫn tồn tại...? thì hỏi làm sao sử dung hơp lý đất đai sức LĐ của người dân ???ND VN còn khổ dài dài và ngày càng bị bần cùng hoá + với chính sách ngu Dân...???
Trả lờiXóaNGLUY
Xin thưa,câu này để Lú trả lời thì chắc ăn nhứt !
Trả lờiXóaNông dân các nước tư bản chính là công nhân nông nghiệp. Họ có cuộc sống cũng hiện đại và sung túc như nhau.
Trả lờiXóaKết luận, chỉ trong CNTB, giai cấp lao động (không vô sản, vì thực tế là giai cấp gần như trung lưu) mới tìm thấy giá trị của mình. Còn ở VN ta, theo lời nhà bác học biện chứng, 100 năm nữa chắc vẫn còn khổ dài dài, vì lúc đó CNXH bánh vẽ không biết có chưa?
Đường quang không đi, cứ thích đâm quàng bụi rậm gai góc! Trí tuệ hay ngu ngốc, trì độn, ích kỷ?!
Bà 3 Sương đang làm ăn phất lên, xây dựng được mô hình Công nhân nông nghiệp ở Nông trường Sông Hậu được hơn 1.000 người, bỗng nhiên bị Nguyễn Tấn Quyên và bè lũ đánh cho te tua để chiếm đất. Nay bà Ba Sương được giải oan, nhưng Nông trường Sông Hậu, mô hình nông nghiệp chất lượng cao, mô hình công nhan nông nghiệp hay như thế, được lòng dân như thế bị phá vỡ, chúng cũng không lấy được đất. Đảng ta Vĩ đại thật!
XóaLà đảng nó mới làm như vậy!
XóaDĩ nhiên là đảng ta vĩ đại, nhưng có ba loại vĩ đại:
Xóa1-Vĩ đại.
2-Vĩ đại thấp.
3-Vĩ đại cao.
Chứ không có loại VĨ ĐẠI THẬT, anh (chị) Trần Vũ nhớ nhé.
Theo ý của bạn 0853, như vậy là có ba loại Đuôi:
Xóa1 - Đuôi dài.
2 - Đuôi vừa.
3 - Đuôi ngắn.
Kỳ họp này nên bổ sung loại thứ 4:
4 - Cụt Đuôi! (Hay còn gọi theo cách biện chứng là "Đứt đuôi con nòng nọc"!)
Nói kiểu bạn Tran Vu thì, "Tiên sư nó! Đuôi nó sao mà lớn thế!"
XóaGiai cấp lao động trong CNTB, nói theo cách "trí tuệ", là giai cấp "Cận giàu".
XóaCái đuối Nguyễn Tấn Quyên ngoe nguẩy, còn cái đầu né chỗ khác.
Xóanông dân việt nam bị đem làm thí nghiệm cho bọn chủ nghĩa xã hội không tưởng, hết cải cách ruộng đất đến hợp tác xã bậc thấp , baacjcao. nhưng ngèo vẫn hoàn ngèo
XóaXin lỗi đọc dài thấy mệt, tôi nghĩ nông dân vốn là người ít học, nên các nhà làm khoa học nên nghĩ cách giúp nông dân đở cơ cực hơn bằng giải pháp cụ thể hơn chứ không nên lý luận dài quá.
Trả lờiXóaXin có ý kiến.
Trả lờiXóaNgựa, ngựa hẳn.
Lừa, lừa hẳn.
Đừng như con la.
Chỉ khổ dân.
"Người cày có ruộng" Là khát vọng nghìn đời của người nông dân Việt nam; chính vì những mục tiêu này mà máu các tầng lớp nông dân đã đổ nhiều nhất trong cuộc cách do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhưng giai cấp Nông dân từ thế hệ này qua thế hệ khác bị phản bội, lừa phỉnh và đến hôm nay, dưới chiêu bài "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa", chút ruộng đất ít ỏi mà họ có được trong thời kỳ đổi mới bị cướp trắng trợn hơn lúc nào hết. Nông dân Việt Nam bị đàn áp tàn khốc hơn bao giờ hết.
Trả lờiXóa"Cải cách ruộng đất" về bản chất là cướp đất của nông dân chia cho nông dân nhưng rồi "Tập thể hóa" trong nông nghiệp thực sự biến họ thành người làm thuê trên ruộng đất của mình. Ruộng đất thành tàn sản tập thể, tài sản toàn dân và người nông dân chẳng có quyền gì. Năng suất, tài sản công, người nông dân lao động phất phơ, cuộc sông vật vờ trong đói nghèo và phụ thuộc. Đặc điểm lớn nhất của nông dân Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp là nghèo khổ, đói rách "Mỗi người làm việc bằng hai, để cho Quản trị mua đài mua xe".
Khoán 10, rồi đổi mới, mở ra chút quyền người nông dân, ruộng đất đã ít nhiều trở thành của riêng của họ, và khi có đất, dù trên danh nghĩa, cuộc sống của họ dần dễ chịu hơn, ít ra thì họ cũng chủ động sản xuất, thâm canh; dù manh mún, lạc hậu, khổ sai nhưng người nông dân đủ ăn đủ mặc.
Nhưng rồi, "thời kỳ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập", đất đai trở thành miếng mồi ngon cho lãnh đạo các cấp, các tập đoàn, các tổng công ty, công ty nhà nước và tư nhân, trong và ngoài nước. Sở hữu toàn dân là phương tiện để các tổ chức, mạng lưới maphia cướp đất vô tội vạ. Hàng triệu nông dân mất đất trở thành nguồn nhân công rẻ mạt cho các tập đoàn tư bản trong ngoài nước và một bộ phận (tuổi trẻ) trở thành đội quân du thủ du thực vì bị bần cùng hóa.
Vì đất, máu người nông dân lại đổ. Tiếng bom Tiên Lãng; lửa cháy Dương Nội, tiếng Súng Thái Bình... không còn lẻ loi mà trở thành những đám cháy tràn khắp cả nước. Tiếng gào thét của nông dân đã trở thành ngọn lửa phản kháng ngày một mang tính tự giác và quy mô ngày một lớn.
Ngọn lửa cháy ở Vũng Áng, Bình Dương đừng nhìn nhận chỉ là sự phá hoại của những kẻ quá khích hay chỉ vì chống Trung quốc. Sâu xa hơn, mãnh liệt hơn là sự uất hận của đại đa số dân chúng với thực tại và trong đó có sự bất công với nông dân. Đại đa số công nhân làm thuê ở các khu công nghiệp đều là con em nông dân.
Cần có một chính sách công bằng, hợp lý đối với nông dân.
Nhưng đó không phải là chương trình mục tiêu quốc gia "xây dựng Nông thôn mới".
Đây là một chương trình mỵ dân,chạy đua thành, nóng vội, thiếu bài bản, trái quy luật,không phù hợp với điều kiện nông thôn ngày nay và đặc biệt không hợp lòng dân.
Mô hình nông thôn mới với 19 tiêu chí, áp đặt và không đủ điều kiện thực hiện; việc đánh giá về cơ bản vẫn cơ sở hạ tầng, thiếu bền vững. Người ta đầu tư và huy động sức nông dân để
xây dựng các lâu đài cát. Từ "chương trình" nó đang biến thành "phong trào" ào ạt, thiếu thực tế, thiếu quy hoạch, thiếu chiến lược và hệ lụy vẫn người nông dân gánh.
Để thực sự thực hiện chính sách với nông dân, hãy tạo cho họ cơ hội được sống chết với đất, trước hết phải trao quyền sở hữu đất sản xuất cho họ, chấm dứt mọi hành động cướp đất, cho họ quyền tối đa trên mãnh đất của mình;
Cái cảnh trong hình có thể lấy làm một cảnh trong bộ phim "Thời Hùng Vương"... (cách đây 4000 năm)
Trả lờiXóaBuồn hiu hắt...