Dân tộc nào cũng có những truyện cổ tích. Truyện cổ
tích được hình thành, biến đổi theo chiều dài lịch sử hàng ngàn năm của mỗi dân
tộc, rồi mới được "định hình". Khi " định hình", truyện cổ
tích đã kết tinh được những giá trị phổ quát mang tính triết học, mỹ học và tâm
linh mà dân tộc đó tôn thờ, trở thành một bộ phận cấu thành nền văn hoá của dân
tộc đó.
Nhớ lại hồi học tiểu học, lớp 3 hay 4, sách giáo khoa
tập đọc cho học sinh có truyện cổ tích " Tấm-Cám". Học sinh phải tập
đọc và còn được thầy, cô giáo đọc hay kể lại nhiều lần với những phân tích
"đắt giá", cố làm cho học sinh "hiểu sâu sắc" hơn những
"giá trị" của truyện Tấm, Cám, như : truyện Tấm, Cám phản ánh cuộc
đấu tranh giữa cái "thiện" và cái "ác", giữa " chính"
và " tà"; kết cục luôn có hậu là " cái thiện" thắng
"cái ác", " cái chính" thắng " cái tà" bằng những
âm mưu lừa gạt và hành vi độc ác, giống như cách hành xử của “cái
ác”, nhưng không bị lên án!
Mỗi khi đọc hay kể đến những lần cô Tấm
bị mẹ, con cô Cám bày mưu lừa gạt, hãm hại, máu căm thù trong tôi
lại sôi lên sùng sục. Ngược lại, khi đọc, hay nghe đến những đoạn “cô
Tấm thảo hiền” lừa và trả thù được mẹ, con cô Cám, cũng bằng những
thủ đoạn, mưu mô và hành vi độc ác tương tự như mẹ con cô Cám, thì
lòng tôi lại hả hê, thích thù vô cùng! Đến đoạn kết, cô Tấm lừa
được cô Cám nghe theo lời mình, tắm gội bằng nước sôi để trắng da nên
bị chết; cô Tấm băm xác cô Cám để làm mắm, gửi về “biếu” mẹ cô
Cám, thì sự độc ác của câu truyện đạt đến tột đỉnh, nhưng bọn trẻ
và có lẽ cả người lớn, lại vui mừng, sung sướng cũng đến tột
đỉnh!??
Bây giờ nghĩ lại thấy rùng mình, không hiểu
nổi tại sao mình lại có tình cảm căm thù và hả hê đến tột đỉnh như
thế khi đọc truyện Tấm, Cám?? Cả câu truyện là một chuỗi những âm
mưu lừa gạt, những hành vi trả thù độc ác, “lấy oán trả oán”, không
có điểm dừng. Đúng là “thù muôn đời, muôn kiếp không tan; “căm hờn
lại giục căm hờn, máu kêu trả máu, đầu van trả đầu” (Tố Hữu). Tuy
vậy, trong lịch sử dân tộc ta, đạo Phật đã tồn tại gần như quốc đạo
trong suốt gần 400 năm dưới 2 triều đại Lý, Trần, với triết lý “lấy
ân báo oán”, hòng chặn đứng chuỗi âm mưu lừa gạt và hành vi độc ác
của con người. Muốn lấy ân báo oán, con người phải biết sống khoan dung.
UNESCO (1995) quan niệm “khoan dung là hài hòa trong khác biệt; khoan
dung vừa là bổn phận đạo đức, vừa là một đòi hỏi pháp lý và
chính trị”. Tuy coi đạo Phật gần như là quốc giáo, nhà Trần vẫn tôn
trọng các tôn giáo khác. “Tam giáo đồng nguyên”, Phật giáo, Đạo giáo,
Nho giáo cùng tồn tại bên nhau, không kì thị, bài xích nhau. Hơn thế
nữa, sau khi chiến thắng quân Nguyên-Mông lần thứ 3, vua Trần Nhân Tông
không những không đọc mà còn buộc đốt bỏ tất cả những đơn thư tố
cáo, vật chứng kết tội một số quan chức đã đầu hàng, thậm chí làm
tay sai cho giặc, rồi tha cho viên quan Hoàng Cự Đà đã trốn chạy quân
Nguyên….. Sau sự kiện này mấy trăm năm , tổng thống Hoa Kì Abraham
Lincol cũng có hành vi tương tự khi kết thúc cuộc chiến Nam-Bắc Mỹ
mà phần thắng thuộc về các bang miền Bắc do ông lãnh đạo.
Sự khoan dung, vị tha trong lịch sử Việt Nam có
lẽ đạt đến đỉnh cao dưới thời vua Lê Thánh Tông, thể hiện trong bộ
luật Hồng Đức. Luật Hồng Đức không những miễn tội cho những kẻ không
tố cáo người thân (ông bà, cha mẹ, vợ chồng, anh, chị em ruột) phạm
tội, mà còn cấm con, cháu tố cáo ông bà, cha mẹ khi họ phạm tội,
trừ tội đại nghịch, giết người thân một cách độc ác; con cháu có
nghĩa vụ che dấu tội cho ông bà, cha mẹ.
Đó là những điểm sáng văn hóa trong lịch sử
hình thành và phát triển dân tộc và nhà nước Việt Nam. Nhưng cũng
rất tiếc là phải thừa nhận rằng triết lí sống lấy oán trả oán
vẫn lấn át triết lí sống lấy ân trả oán trong suốt chiều dài lịch
sử Việt Nam. Lừa bịp và dối trá, căm hờn và trả thù một cách độc
ác, nói gọn là “dối trá và độc ác” có thể được định danh là “Văn
hóa Tấm – Cám”.
“Văn hóa Tấm, Cám” có lẽ bắt nguồn sâu xa từ
văn hóa làng Việt . Có thể khi mới ra đời, truyện Tấm-Cám chỉ phản ánh khát
vọng chiến thắng cái ác của những người yếu thế, lương thiện , mà chủ yếu là
nông dân . Nhưng cùng với quá trình lịch
sử phát triển của dân tộc Việt, nó đã trở thành văn hoá lúc nào không hay. Mỗi
làng là một ” tiểu vương quốc”, “ phép vua, thua lệ làng”. Trai, gái
kết hôn theo tập tục bất thành văn “trong làng, ngoài họ” (tất nhiên
vẫn có ngoại lệ). Trai làng này sang “tán” gái làng kia dễ dẫn đến
ẩu đả, đổ máu giữa con trai 2 làng. Trong mỗi làng, không chỉ có
những vị thuộc lớp Kì, Hào, Mục hãnh tiến về mình và tranh giành
vị thế, uy danh với nhau, với làng bên, mà đến tên mõ làng cũng vậy.
Thằng mõ là kẻ có chức “tệ” nhất trong một làng, mà còn có cảnh
“thằng mõ làng lớn bắt nạt thằng mõ làng bé”. Mõ làng lớn phải
“oai” hơn, hãnh tiến hơn các mõ làng bé. Thế thì các vị Kì, Hào,
Mục ở làng lớn cũng sẽ ra oai với các vị Kì, Hào, Mục ở làng bé
gấp nhiều lần bọn mõ làng. Muốn tỏ ra “oai hơn” tất phải âm mưu lừa
gạt và hành động độc ác theo “Văn hóa Tấm – Cám”. Người Việt từ xa
xưa và dường như vẫn tồn tại đến bây giờ cái “lí tưởng”, cái mục
tiêu cao nhất, gần như duy nhất của sự học là để làm quan, chứ không
phải làm doanh nhân hay khoa học gia. Bởi kẻ làm quan mới có vị thế
quyền hành bắt nạt người khác, ra oai với mọi người, tự hào với dòng
tộc, làng nước, để “ Một người làm quan, cả họ được nhờ”. Tất nhiên,
để đạt được “khát vọng” đó, từ thằng mõ đến các quan lớn, nhỏ đều
phải thực hiện các hành vi “lừa bịp và độc ác”. Dường như, người
ta, dù có học vấn, cao hay thấp, có địa vị hay sang hèn, đều cảm
thấy sung sướng, hãnh tiến và tự hào khi làm người khác đau khổ
bằng những âm mưu lừa gạt thấp hèn
và hành vi độc ác của mình. Chả thế mà một anh dân phòng, giữ trật
tự ở chợ, lại dám vặn cổ một người bán hàng rong; Một viên cảnh
sát giao thông dám đánh chết người dân ở đồn công an chỉ vì người
này mắc lỗi vi phạm luật giao thông :đi xe máy không đội mũ bảo
hiểm….. Bộ máy cầm quyền cai trị bằng cách làm cho người dân luôn
luôn nơm nớp lo sợ trước những âm mưu lừa gạt và hành vi độc ác của
kẻ có, dù chỉ một chút, quyền lực. Nhà cầm quyền dù là vua, quan
dưới thời phong kiến hay quan lại dưới thời thực dân đều cai trị dân
theo kiểu như vậy : Tạo ra tâm lí sợ hãi trước uy quyền, không cần biết
uy quyền ấy có chính danh hay không.
Nhưng “tức nước vỡ bờ”, “con giun xéo mãi cũng
oằn”, người bị cai trị đến một ngưỡng nào đó sẽ vượt qua sự sợ
hãi, dám đứng lên chống lại kẻ cầm quyền. Đến lượt họ, người dân,
theo “Văn hóa Tấm – Cám”, cũng dùng những âm mưu lừa gạt và hành vi
độc ác để trả thù bọn cầm quyền, nhiều khi còn độc ác hơn bọn quan lại. Sự hận thù, lấy oán trả
oán của người dân đối với bọn quan lại thực dân còn tệ hại, độc ác
hơn đối với bọn quan lại phong kiến. Lúc đầu, sự phản kháng của người
dân thường bằng những câu truyện tiếu lâm, những lời nói châm biếm,
chế giễu bọn quan lại, như “miệng quan, trôn trẻ”, “cướp đêm là giặc,
cướp ngày là quan”; “thằng ấy tuy là đảng viên nhưng mà tốt”; “Nó tuy
là giáo sư, nhưng mà giỏi”…. “Nó tuy là giám đốc, nhưng biết thương
người lao động”…..Nhưng khi đã vượt qua sự sợ hãi, sự uất ức của
người dân biến thành những hành động độc ác, như “Trí, phú, địa,
hào: Đào tận gốc, trốc tận rễ”, cất lên lời ca đầy hãnh tiến “thề
phanh thây, uống máu quân thù; đường vinh quang xây xác quân thù” (Văn
Cao). Tuy thế, dân tộc Việt Nam cũng đẻ ra những trí thức tinh hoa,
thấy được tai hại của “Văn hóa Tấm ,Cám”. Phan Chu Trinh và nhóm
Nguyễn Ái Quốc ở Paris đầu thế kỉ 20 đã kế thừa văn hóa đạo Phật
thời Lý-Trần, kết hợp với văn hóa phương tây “Tự do, bình đẳng, bác
ái”, không muốn dùng bạo lực, đổ máu của người dân để có độc lập
dân tộc, nên đưa ra khẩu hiệu “Pháp-Việt đề huề”, “khai dân trí, chấn
dân khí, hậu dân sinh”. Điều đáng tiếc là, người Việt rất kính trọng
chí sĩ Phan Chu Trinh, hàng vạn người dân đã dự lễ tang cụ ở Sài
Gòn năm 1926, nhưng lại không chấp nhận tư tưởng của cụ. Phần lớn
người Việt cho tư tưởng của cụ Phan Chu Trinh là cải lương, là ảo
tưởng….Vì thế, Tản Đà đã phải thốt lên “ Dân hai mươi triệu, ai người lớn/
Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con”. Họ đã dùng bạo lực để có độc lập dân
tộc, mặc dù phải hy sinh tính mạng đến mức “núi xương, sông máu”,
“dù có phải đốt cả dãy Trường Sơn” (Hồ Chí Minh). Nhưng khi đã thoát
khỏi ách nô lệ thực dân, người ta lại tự đeo vào cổ gông cùm mới,
đậm “Văn hóa Tấm – Cám”, thằng mõ làng lớn bắt nạt thằng mõ làng
bé. Vì thế , lí thuyết đấu tranh giai cấp, đấu tố địa chủ diễn ra
không chỉ trong mỗi làng mà cả trong mỗi gia tộc, đến mức “Ông không
phải là bố tôi” (Lưu Quang Vũ). Người ta hô hào :
Giết, giết nữa, bàn tay không ngừng
nghỉ
Cho đồng ruộng lúa tốt, thuế mau
xong
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước
chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít ta lin
bất diệt (Tố Hữu!)
Trong cải cách ruộng đất 1953-1956, con đấu tố
cha mẹ, vợ đấu tố chồng, kẻ mang ơn bịa đặt tố cáo người gia ơn…. diễn
ra phổ biến mà điển hình tột bậc là vụ đấu tố, xử bắn bà Nguyễn
Thị Năm ở Thái Nguyên năm 1953.Dung la lay oan tra an. Theo cuốn sách
“Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000” của Viện kinh tế học Việt Nam,
trong cải cách ruộng đất, có tới 586.000 nạn nhân bị xử lí, 172.008
người bị giết, trong đó oan sai là 123.266 người, chiếm 71,66% số
người bị giết. Lưu ý là người bị giết oan sai là theo tiêu chuẩn của
nhà cầm quyền. Luật hình sự 1985 qui định con cháu phải tố cáo ông,
bà, cha, mẹ, vợ chồng phải tố cáo nhau, khi cho là họ mắc tội. Lòng
khoan dung, nhân bản của bộ luật Hồng Đức thời Lê Thánh Tông bị xóa
bỏ. “Văn hóa Tấm – Cám” vẫn có giá trị phổ quát, trở thành mảnh
đất màu mỡ cho sự phát triển nhanh chóng của học thuyết “đấu tranh
giai cấp, với tư cách là động lực của sự phát triển xã hội”. Bởi,
theo Các –Mác, trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản 1848, “suy cho đến
cùng, lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp”. Và kết
quả cuối cùng của đấu tranh giai cấp tất yếu phải là sự thiết lập
nhà nước chuyên chính của giai cấp vô sản, không phải là nhà nước
của toàn dân, do dân, vì dân”. Vì thế, trong những năm 1952-1954 ở Việt
Bắc, giới trí thức đi kháng chiến phải “chỉnh huận” để giác ngộ
lập trường giai cấp công-nông, tự nguyện “đầu hàng giai cấp công-nông”,
tự lên án cha mẹ, bản thân mình là thấm đậm nền giáo dục thực dân,
làm công trong bộ máy cầm quyền thực dân là phản cách mạng, có
xưởng máy, đồn điền là bóc lột, học vấn càng cao, càng nhiễm độc
văn hóa của thực dân, phong kiến, chỉ thích hưởng thụ cá nhân, không
dám dấn thân. Ai không “tự ngộ”, tự “xỉ vả” mình thì các đồng chí
sẽ giúp mình giác ngộ, bằng những ngày dài, đêm thâu thực hiện phê
bình, kiểm điểm theo kiểu đấu tố xỉ vả nhau. Không tự tìm thấy
khuyết điểm của mình là ngoan cố, không thành khẩn, chưa giác ngộ giai
cấp, là tiểu tư sản, phải cố nghĩ ra khuyết điểm để chứng tỏ mình
đã thấm nhuần học thuyết Mác-Lenin, Mao Trạch Đông…
Sau 30/4/1975, “bên thắng cuộc” (Huy Đức), đã cất
những lời ca hào hùng, kiêu hãnh, sảng khoái, hân hoan….”Như có bác
Hồ trong ngày vui đại thắng” (Phạm Tuyên), “Đất nước trọn niềm vui”
(Hoàng Hà), “Tiếng hát từ thành phố mang tên Bác” (Cao Việt Bách…).
Niềm kiêu hãnh ấy và “Văn hóa Tấm-Cám”
đã dẫn đến những chính sách bịp bợm và trả thù độc ác đối
với “bên thua cuộc”, như chính sách cải tạo mà thực chất là tù không án
đối với những người đã tham gia vào bộ máy cầm quyền của “bên thua
cuộc”, thực thi chiến dịch X1, X2 đối với tư sản, tiêu diệt tầng lớp
doanh nhân văn minh vừa mới hình thành trong nền kinh tế thị trường,
để sau đó hơn 10 năm (1986) lại bắt đầu mở ra kinh tế thị trường hoang
dại, hình thành một tầng lớp doanh nhân thân hữu,lien kết với những kẻ thoai hoa trong bộ máy cầm
quyền, tạo ra các nhóm lợi ích kiểu mafia, chuyen “buon co che,chinh
sach”,thay vi buon vua nhu La Bat Vi ngay xua ,dẫn đến quốc nạn tham nhũng
không thể khắc phục được, đến những vụ cướp đất, làm bần cùng hóa
nông dân, gây nên những “núi” oan ức thấu trời cao, cùng đất kiệt.
Bên cạnh nền “Văn hóa Tấm-Cám”, cũng có điểm
sáng tuy chỉ le lói của văn hóa khoan dung, nhân bản. Văn nghệ sĩ chân
chính và tài ba là những con chim báo bão, dự đoán tương lai phát
triển của mỗi dân tộc. Năm 1976, bài ca “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao
ra đời là một trong những tia sáng le lói ấy. Hình như ông đã sám
hối, khi cất lên lời ca :”Từ đấy người biết quê hương, từ đấy người
biết thương người; Từ đấy người biết yêu người” trong giai điệu valse
nhẹ nhàng, du dương, êm đềm, đầm ấm.” Mùa xuân đầu tiên” lại là sự
kết thúc của quá trình tự ngộ của Văn Cao, của dân tộc, đi từ triết
lí lấy oán trả oán, “thề phanh thây uống máu quân thù”, “đường vinh
quang xây xác quân thù” đến triết lí khoan dung “người biết thương
người, biết yêu người”. Chính vì sự “mơ hồ lập trường giai cấp,”nhưng
đậm tính nhân loại , nên ” Mùa xuân đầu tiên” chỉ xuất hiện trên báo
“Sài Gòn giải phóng” xuân Bính Thìn 1976, và phải đợi 20 năm sau, khi
Văn Cao chết, nó mới được cất lên trên sàn diễn và các phương tiện
thông tin đại chúng. Một chính trị gia hiếm hoi, cố Thủ tướng Võ Văn
Kiệt cũng đã ngộ ra như Văn Cao khi ông phát biểu, đại ý:”Ngày 30 tháng
4 nên gọi là ngày hòa bình, thống nhất nước nhà, đừng gọi là ngày
giải phóng Miền Nam. Bởi vì ngày đó, có một triệu người vui ,thì cũng
có một triệu người buồn”.
Những hậu quả tiêu cực của xã hội ta hôm nay
trên tất cả các lĩnh vực bắt nguồn từ “Văn hóa Tấm-Cám”. Đừng đổ
cái lỗi ấy cho bất kỳ nhóm người nào, cho ý thức hệ nào. Bởi vì,
dù là ý thức hệ nào, nó cũng chỉ là trào lưu tư tưởng của xã hội
loài người, vốn rất đa nguyên, nhiều nhóm lợi ích….Tiếp thu ý thức
hệ nào tùy thuộc ở văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi gia tộc và mỗi con
người cụ thể. Bản thân ý thức hệ
không có lỗi. Nhóm người nào, dù có ý thức hệ quốc gia hay quốc tế
cộng sản đều là một bộ phận của dân tộc Việt, là kết quả của
hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, của quốc gia Việt Nam, đều là
“con Lạc, cháu Hồng”. Tại sao các nước quanh ta, như Thái Lan, Malaysia , Indonesia ,
Myanmar , India …., họ
không tiếp thu học thuyết đấu tranh giai cấp?? Không dùng bạo lực để
chống bạo lực? Chính quyền của họ không được đẻ ra trên nòng súng
như Mao Trạch Đông nói?. Không lấy oán trả oán? Nhưng cuối cùng, hiện
nay, họ không những giành được độc lập dân tộc trọn vẹn, mà còn
phát triển, hơn ta nhiều lần, về mọi mặt. Rất tiếc là đã có một
Mahatma Gandhi, một Nelson Mandela của Việt Nam, là Phan Chu Trinh, nhưng
dân ta lại không chấp nhận tư tưởng của ông, nên đã không đạt được thành
tựu như India và Nam Phi.
Nhưng lịch sử không có “chữ nếu” hay “giá như”.
Sự kiện lịch sử chỉ diễn ra một lần duy nhất, tuy rằng người ta có
thể viết nhiều lần về cùng một sự kiện ấy, dưới góc nhìn khác
nhau. Phê phán nhau lúc này là “xa xỉ”. Phải trở lại tư tưởng Phan Chu
Trinh: mọi tầng lớp xã hội sống đề huề trong khoan dung, khai dân trí,
chấn dân trí, hậu dân sinh. Có dân trí và dân khí cao, con người sẽ
vượt qua nỗi sợ hãi, để xây dựng lại đất nước từ nền móng, theo xu
hướng thời đại, hội nhập với thế giới văn minh. Bởi dân nào chính
phủ ấy, chứ không phải ngược lại. Cho nên
tầng lớp trí thức tinh hoa phải dấn thân trong sự nghiệp khai
dân trí, xóa bỏ “Văn hóa Tấm –Cám”,
xây dựng văn hóa khoan dung, nhân bản, mọi người đều thắng. Hãy khép
lại cánh cửa của quá khứ hàm hồ [Dương
Thu Hương] và mở ra cánh cửa của tương lai nhân bản và dân chủ
cho Việt Nam. Nelson Mandela, sau 27 năm bị tù đày, đã rất chí lí và sâu
sắc, khi nói, đại ý :” Bước ra khỏi cánh cửa nhà tù, nếu tôi vẫn
mang theo lòng hận thù, thì tôi vẫn là một tù nhân”. Hòa giải, tha thứ
và khoan dung để cùng nhau xây dựng lại (reengineering hay perestroika,
không phải tái cấu trúc- restructuring) đất nước về mọi mặt kinh tế, xã hội,
văn hóa, môi trường tự nhiên và nhân văn. Đó là con đường duy nhất đưa
Việt Nam đến vị thế sánh vai cùng các nước phát triển trong khu vực
và thế giới./
P/S : Không có quốc gia nào chọn được quốc gia láng
giềng. Không con người có thể chọn được sắc tộc, dân tộc và cha mẹ. Nhưng con
người có thể chọn được quốc tịch. Mà những con người có khả năng tự chọn quốc
tịch cho mình hầu hết là người thông minh thuộc giới tinh hoa, là nguyên khí
của quốc gia. Thế hệ hôm nay phải làm hết sức mình để con cháu chúng ta không
buộc phải chọn cách “bỏ phiếu bằng chân” [Ly.dai
ngu] để thay đổi quốc tịch của mình.
VTK (Tác giả gửi
BVB)
---------------
Đó là thời mạt !... Con người không xứng làm người ./.
Trả lờiXóaBài quá hay .
Trả lờiXóaTôi nhớ cách đây vài chục năm , Thụy Điển in giúp ta ( cho không ) truyện Tấm -Cám . Qua nội dung truyện , họ nhận xét : Người dân các bạn ác quá ...!
Giết, giết nữa, bàn tay không ngừng nghỉ
Kính thưa tác giả Vũ Trọng Khải!
Trả lờiXóaNếu không có "văn hóa Tấm-Cám", dân tộc Việt Nam có chấm dứt được "Nghìn năm Bắc thuộc" hay không? Những Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa là cô Tấm "làm mắm" cô Cám đấy(hai nước anh em- chị em). Truyện Tấm -Cám có từ rất xa xưa và nhìn nhận theo cách này sẽ chính xác hơn.
Bạn có thể "lấy ân trả oán" cho kẻ đã đô hộ tàn bạo dân ta cả ngàn năm? Bạn có thể quỳ gối dâng biển đảo dể "dĩ hòa vi quý"?
Tuy nhiên và dù sao, rất trân trọng một cách nhìn của tác giả!
Theo tôi thì đại văn hào người Đức là ông Gơt đã nói rất hay và rất đúng : "Mọi lý luận chỉ là màu sám / còn cây đời vẫn mãi mãi xanh tươi "
Trả lờiXóaKhi coi dân là địch coi người lương thiện không nhất trí với ý kiến của mình khi mình có quyền cũng là địch thì nhà nước suy và bị diệt là tất yếu
Trả lờiXóaBài viết phân tích rất nhân văn và thấm đẫm giáo lý nhà Phật . Đây là đề tài rất rộng, khó mô tả và phân tích hết mọi khía cạnh. Dân tộc VN ta trải qua 1117 năm Bắc Thuộc và gần 100 năm thuộc Pháp. Cũng ngần ấy năm Dân tộc VN đã phải tự đứng trên đôi chân gầy của mình để đấu tranh, chiến đấu chống ngoại xâm và giải phóng Dân tộc khỏi ách đô hộ của nước ngoài. Đó là truyền thống bất khuất , anh hùng rất quý báu của dân tộc VN . Câu chuyện "Tấm Cám" dùng để ám chỉ mà giả gọi là "văn hóa Tấm - Cám " chỉ mới đề cập đến tư tưởng "oán trả oán" diễn ra giữa các cá nhân và trong nội bộ dân tộc VN. Tác giả chưa đề cập đến " văn hóa khoan hồng đại lượng" đối với quân giặc bại trận, đã chứng minh trong Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi. .. Sỡ dĩ XH Việt nam hiện nay đang bị suy đồi về đạo đức, đánh mấy dần lòng nhân ái , hành xử với nhau đậm chất giang hồ "oán trả oan" là do chế độ chính trị do ĐCSVN gieo rắc. TRong đó nguyên lý " đấu tranh giai cấp của g/c vô sản với g/c tư sản" của CN Max -Lenil mà ĐCSVN nhập khẩu về VN là nguyên nhân chủ yếu. Nếu ai đã ở trong nội bộ ĐCSVN thì sẽ hiểu sâu sắc nguyên lý đó . Thực tế VN sau ngày hòa bình 1975 đến nay đã chứng minh rằng : VN chưa thật sự thống nhất .
Trả lờiXóaVề Hà Tiên ta sẽ gặp động Thạch Sanh (với thời gian tồn tại đã hàng trăm năm). Do vậy, chuyện cổ tích Thạch Sanh... không phải của người Việt...
Trả lờiXóaCác nước phát triển (Nhật, Hà Lan...), người dân sống rất ôn hòa. Nói cách khác, nhờ lối sống ôn hòa mà người ta phát triển cao.
Trả lờiXóaCòn ở VN, dưới chế độ cộng sản, người ta sống vừa ác, vừa hèn - ác với người yếu hơn mình, hèn với người mạnh hơn mình!
Chừ ngân khố rỗng tuếch văn hóa tiền lên ngôi
Trả lờiXóaĐã là văn hóa, thì mọi người phải hết sức tôn trọng sự thật vì "Sự thật là chân lý", nhưng chế độ cộng sản rất sợ sự thật. Chúng tìm mọi cách tuyên truyền, bóp méo sự thật, để thủ tiêu sự thật. Bọn tuyên giáo được hà hơi tiếp sức, tha hồ lừa bịp dân đen. Chúng dùng chính sách "Sùng bái cá nhân" để ca ngợi. thần thánh hóa lãnh tụ, ca ngợi, tô hồng chế độ để đưa nhân dân vào tăm tối "Chính sách ngu dân". Tôi còn nhớ trước đây khi còn hợp tác xã nông nghiệp vào năm 1963, dân tình mọi nơi không còn gì để ăn, không còn củ chuối để mà độn cơm. Thiếu một điều dân phải ăn cứt. Có nơi, đã chết rũ tóc. Ấy thế mà khi bất cứ cuộc họp nào là bí thư xã hay chủ nhiệm địa phương đều bắt nhịp cho bà con xã viên hát hò, họa theo ý của chúng nó.
Trả lờiXóa"Tình tính tang, tang tính tình.
Ơn cụ Hồ, ơn Đảng ta thì mới có, có hôm nay".
Cái thứ nhồi nhét chính trị này, làm gì mà dân không ngu, hả tác giả Vũ Trọng Khải?