Văn nghệ Chủ nhật
* Truyện ngắn - PHAN NGỌC HẢI
Trân trối nhìn người phụ nữ đối diện, không còn
gì để lầm lẫn nữa. Tôi vụt bước tới cầm lấy tay chị, nói như hét:
- Kìa,
chị Gái. Chị Gái của em đây mà!
Người
phụ nữ cứ nhìn tôi đăm đăm từ đầu đến chân, rồi bất ngờ rút nhẹ bàn tay, miết
lên vết sẹo dài nơi trán tôi. Giọng chị run run đầy kinh ngạc:
- Trời
ơi! Vĩnh, Vĩnh đây sao? Vĩnh của chị…
Hai giọt nước vỡ òa từ khóe mắt, lăn dài trên đôi gò má lấm tấm tàn nhang, chị
tiếp:
- Đã
hơn ba mươi năm còn gì hở Vĩnh?
Tôi cắn chặt môi, cố dằn cơn xúc động.
Phải, hơn ba mươi năm trôi qua trong xa cách, mặc dù
đôi lúc nhớ thương chị đến cháy lòng, nhưng tôi chưa một lần hình dung được
rằng sẽ có một ngày chị em tôi hạnh ngộ trong hoàn cảnh như thế này. Chị tôi -
một nhân vật "thời sự” mà địa phương đang phát huy. Còn tôi, một người
viết tự do, đang đi tìm tư liệu.
Chị
em tôi cứ tay trong tay bổi hổi, mặc cho bao cặp mắt của những người giới thiệu
chị, tò mò dò xét. Mặc cho bao công nhân đang thao tác, phải dừng tay nhìn nhau
ngỡ ngàng…
* * *
Gái – cái tên mà bà ngoại tôi và cả gia đình đã thân ái đặt cho chị từ hồi còn
bé. Thật ra, chị có cái tên rất dễ thương: Phan Ngọc Duyên. Cũng như cái tên,
chị tôi không đẹp, nhưng có duyên hết biết. Đôi mắt to, đen thăm thẳm nép dưới
rèm mi dài và rậm, trông lúc nào cũng ướt át, thu hút hồn người. Có lần bà
ngoại bảo với mẹ tôi: "Đôi mắt con Gái đẹp mà buồn quá, tao sợ sau này nó
khổ về đường duyên phận…”. Tuy làn da chị tôi rám nắng nâu dòn, nhưng bù lại
chị sỡ hữu khuôn mặt trái soan, sống mũi thẳng, trông rất thanh tú. Nét duyên
nhất ở chị là đôi lúm đồng tiền lún sâu bên khóe miệng, làm nụ cười tươi tắn
hẳn.
Năm sáu mươi lăm, trong một vụ tai nạn xe cộ, không may cậu mợ tôi và đứa con
trai lớn qua đời, để lại chị - cô con gái mới tròn bảy tuổi, sớm chịu cảnh cút
côi. Dạo ấy cậu Út đã vào cứ, nên chị về sống và lớn lên bên bà. Nội của chị,
tức là Ngọai của tôi.
*
* *
Ngày trước, tuy là gái thôn quê, nhưng mẹ tôi
được ông bà ngoại cho ăn học đàng hoàng. Sau khi ông Ngoại chết, mẹ lên Sài gòn
học tiếp ban tú tài. Ở đấy ba mẹ tôi gặp, yêu và cưới nhau. Hai người
cùng nghề giáo, tôi ra đời, nghiễm nhiên là đứa trẻ thành phố.
Mỗi dịp hè, để thay đổi không khí, ba mẹ thường gởi
tôi về quê Ngoại, đó là một cù lao nhỏ bên giòng Cửa Tiểu. Chính vùng quê nghèo
này, tôi đã cơi giữ được những tháng ngày ấu thơ tràn đầy kĩ niệm bên cạnh chị
Gái.
Dù là vai em nhưng tôi lớn hơn chị Gái một tuổi, thế
mà chị tỏ ra khôn ngoan, giỏi giắn hơn tôi nhiều. Mới lên mười, chị biết giúp
bà sàng gạo, nấu cơm, phơi củi rồi giặt giũ cho tôi. Chị làm việc như một người
lớn.
Tuy vất vã nhưng chị tôi chưa đánh mất tuổi hồn nhiên.
Đồ chơi của chị em tôi là những bông mướp vàng, những chùm mồng tơi tim tím,
những chú chuồn chuồn kim màu đỏ rực…
Khi
những trận mưa rào tháng sáu ập xuống mát trời mát đất, thằng bé thành phố
trắng trẻo là tôi, cũng biết xách thùng lon ton chạy theo chị Gái ra rẫy bắt
còng bắt ốc, chiều về ghé bờ sông hái đọt gừa đọt choại để bà nấu canh rau. Rồi
những trưa nắng gắt, chị rủ tôi trốn ngủ, lấy dây cước nhỏ thắt vòng , ra mé
sông giật cá thòi lòi, cá bống.
Và cũng chính trên quê hương nghèo này, tâm hồn tôi
được tắm đẫm trong những câu hát ru, những bài ca dao dịu ấm…Những lúc bên cánh
võng, tôi và chị Gái ngồi tỉ mẩn tìm nhổ từng sợi tóc sâu cho bà, bà thường
khắc họa vào tâm trí chị em tôi những hình ảnh của cô Tấm, cô Cám, An Tiêm,
Thạch Sanh – Lý Thông…Bà dạy cho chúng tôi biết phân biệt những điều thiện ác;
những chuyện đúng, sai … để sống ở đời. Ơi, không hiểu sao giây phút ấy, tôi
bắt gặp trong đáy mắt thẳm sâu của chị Gái – những sợi khói buồn lan tỏa.
Mỗi năm, khi học kì "hai” sắp kết thúc, ngồi
trong lớp học nhìn ra cửa sổ, nhác thấy những búp Phượng trổ sớm như đốm lửa
trong sân trường, tôi lại nôn nao chờ đợi một mùa hè mới.
Tôi về quê, thường mang tặng chị Gái lắm truyện sách
Tuổi Thơ. Có khi chị em tôi ngồi với nhau cả buổi, tôi kể lại từng nhân vật
trong những tác hay mà mình đã đọc, hoặc bình những đoạn Văn của mấy tác
giả nổi tiếng… Chị vẫn vui vẻ tiếp thu, nhưng tâm hồn tôi ấp ủ mộng văn chương
bao nhiêu, thì chị Gái tỏ ra có năng khiếu về Toán bấy nhiêu.
"Sau này là nhà văn, Vĩnh có viết về quê
Bà, Vĩnh có viết về chị không? Còn chị thích làm cô giáo dạy học trò…”.
Tôi rưng rưng xúc động trước mơ ước hiền hòa, bình dị như bãi lúa, như dòng
sông quê Ngoại… của chị Gái tôi.
Mùa hè năm bảy hai, tôi về thì lưng ngoại đã còng nhiều hơn năm trước, bà đi
lại chậm chạp. Chị Gái bây giờ không những gánh vác việc gia đình, mà còn chăm
sóc cho bà tôi nữa.
Một buổi trưa, tôi ngồi vắt vẻo trên nhánh sung thấp de ra mương, nhìn những
chú chuồn chuồn kim chao lượn bên bè rau ngỗ trôi dập dềnh, nghe tiếng gió chạy
đuổi nhau trên khóm dừa nước lao xao. Chị Gái mải miết giặt đồ trên cây cầu gỗ
dưới tán sung. Đôi mắt vốn buồn của chị càng buồn hơn, khi chị ngước nhìn tôi:
- Vĩnh
ơi! Tựu trường này chị vào lớp chín, nhưng năm nay bà già yếu rồi… chắc chị
thôi học.
Chị
thôi học ư? Tôi nghĩ đến ngày chị tôi thôi học, sẽ thiếu vắng bạn bè, thầy cô.
Rồi chị tôi cứ phải quẩn quanh trong khu vườn nhỏ bé với bếp núc, heo gà… Trái
tim non nớt của tôi như có bàn tay ai bóp mạnh. Tôi hốt hoảng, ngơ ngác:
- Đừng
nghỉ học chị ơi! Nghỉ học buồn lắm. Rồi còn giấc mơ làm cô giáo dạy học trò
nữa. Nhất định giấc mơ ấy phải trở thành hiện thực , chị nha.
Giọng
chị rưng rưng:
- Nhưng
ba má chị chết cả rồi.
Ơi, giọng nói của chị nghe hiền làm sao?! lúc ấy tôi
thương chị Gái biết chừng nào. Thương đến phát khóc.
Tôi vẫn tiếp tục những ngày hè hiếm hoi bên bà, bên
chị Gái. Tôi luôn được bà và chị cưng chiều, chăm sóc thật chu đáo. Nhưng tâm
hồn tôi, tự lúc nào len lõi nỗi buồn mênh mang… Có lẽ từ buổi trưa, nghe chị
Gái báo tin sẽ thôi học?..
Lại một buổi trưa.
Sau giấc ngủ ngon lành, tôi choàng dậy dụi mắt nhìn
quanh chẳng thấy chị Gái đâu. Định chạy đi hỏi bà, tôi chợt nghe tiếng
dầm khua nước ngoài mương. Thì ra trong lúc tôi ngủ, chị Gái bơi xuồng ra sông,
len lách tìm dừa nước, đốn về đãi tôi.
Nhìn
những giọt mồ hôi lấm tấm trên khuôn mặt đỏ hồng, lúc chị khệ nệ bê quày dừa
nước từ dưới xuồng lên, tôi thấy chị giống như cô Tấm dịu hiền mà bà tôi thường
kể.
Hai
chị em vừa lúi húi bổ những trái dừa màu nâu, vừa nói chuyện rơm rã. Trong lúc
chị thẳng tay giơ dao định bổ một phát xuống trái dừa đang kê sẵn, rủi ro lưỡi
dao rời khỏi cán, bay vút sướt qua trán tôi, tạo vết dài. Tuy vết thương không
sâu nhưng máu ra nhiều lắm, máu thấm ướt cả vạt áo trắng học trò của tôi đang
mặc. Bà tôi cuốn quít, còn chị Gái sợ hãi, mặt mày tím tái, không khóc được.
May nhờ có anh hàng xóm chạy sang rửa ráy và băng bó vết thương cho tôi. Bấy
giờ chị Gái tôi mới khóc, khóc nức nở. Anh hàng xóm nhìn chị thiết tha, an ủi.
Tôi ngước lên, bắt gặp trong đôi mắt sáng, đẹp của anh ấy: Hình ảnh chị Gái tôi
ngự trị thật tròn đầy.
Lần trở về thành phố năm đó,
chị Gái bơi xuồng đưa tôi qua sông và xách va-li tiễn tôi ra tận thị trấn. Trên
đương đi, hai chị em không vui đùa, cười giỡn như những bận trước.
Khi chiếc xe bắt đầu chuyển bánh, chị Gái chồm lên cầm
chặt bàn tay tôi, vẫn đôi mắt u buồn và giọng nói đứt quãng:
- Hè
năm sau…. nhớ về nữa nghe… Vĩnh. Chị ch..ờ..
Tôi
im lặng giấu niềm thổn thức, xiết chặt bàn tay chị và gật đầu lia lịa.
Nhưng rồi chiến tranh
càng lan rộng và ác liệt. Tân Thới ngày đêm phải gồng lưng gánh chịu bao nhiêu
bom đạn… Ba mẹ tôi quyết định không cho đứa con trai duy nhất của mình về nghỉ
hè quê ngoại nữa.
Cánh
cửa tuổi thơ của tôi cũng khép lại từ mùa hè năm ấy.
Hai
năm sau được tin Ngoại qua đời, chỉ một mình mẹ tôi về thọ tang. Những mùa hè
kế tiếp, sống quẩn quanh nơi thành phố, tôi nhớ chị Gái vô cùng.
* * *
Tôi
học dỡ dang năm thứ nhất Văn khoa thì Hòa Bình. Mấy tháng sau tôi bận lao vào
công tác Học đường, mẹ tôi về thăm quê Ngoại. khi quay lên, mẹ mang theo tin:
Cậu
Út đã về. Cậu lấy vợ, hai người làm việc tại huyện nhà. Cậu mợ Út giới thiệu và
gã chị Gái cho một người bạn quen hồi trong cứ. Lễ cưới "thời đại” chỉ tổ
chức đơn sơ…
Tôi bâng khuâng: Chị tôi phải bỏ vùng cù lao yêu dấu,
sang sông về quê chồng ở miệt đồng xa lắc. Chị tôi ra đi, còn gửi lại mối tình
đầu ở miền quê sông nước.
Cuối
năm bảy mươi sáu, trước khi tình nguyện đi TNXP, tôi có về Tân Thới giỗ Bà. Lần
ấy, tôi không ngờ gặp lại một chị Gái tàn tạ đến xót xa. Tôi hoang mang tự hỏi:
đâu rồi chị Gái của tôi ngày nào hồn nhiên, sáng trong như giọt nước? Đứng
trước tôi bây giờ là một phụ nữ tuổi chưa tròn mười chín, mà hốc hác, tiều tụy,
tay bồng con thơ khóc ặc ẹo… ngỡ ngoài ba mươi. Đâu rồi đôi giếng mắt ẩm ướt
dưới hàng mi rậm, luôn nhìn xa xôi như thu hồn thiên hạ? Lúc này chỉ còn lại ở
chị Gái, đôi hốc mắt khô khốc đến lạc thần. Có lẽ ngày tháng qua chị tôi đã
khóc, khóc trong âm thầm, khóc đến nguồn nước mắt đã cạn? Càng nhìn chị,
tim tôi càng đau
thắt.
Chị Gái bơ phờ cho biết: anh rễ tôi đang phụ trách xã Đoàn, anh đã bỏ nhà, quan hệ với một nữ thanh niên. Mỗi lần về, anh khảo tra tiền bạc và hành hạ mẹ con chị rất tàn tệ…
Chị Gái bơ phờ cho biết: anh rễ tôi đang phụ trách xã Đoàn, anh đã bỏ nhà, quan hệ với một nữ thanh niên. Mỗi lần về, anh khảo tra tiền bạc và hành hạ mẹ con chị rất tàn tệ…
Bất giác tôi nghĩ thầm – Không hiểu trong lúc đau khổ
thế này, chị tôi có nuối tiếc lại mối tình đầu tươi đẹp ngày nào và có oán
trách cậu Út không? Rồi nếu biết hoàn cảnh truân chuyên của chị Gái hiện tại,
không hiểu anh láng giềng ngày trước từng yêu chị tôi, có hát giùm:
"Bướm
vàng đậu nhánh mù u,
Lấy
chồng sớm quá… lời ru thêm buồn..”
* * *
Trải
qua mấy năm TNXP, chàng thanh niên thành phố ốm yếu đã mất hẳn trong tôi. Những
ngày nắng lửa, cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam đầy khốc liệt, đã để lại đôi
vai tôi những vết chai sần vì cáng thương tải đạn. Bàn chân tôi đã tứa máu sưng
vù trong rừng Le, rừng Khộp của miền Đông. Giọt mồ hôi tôi đã hòa cùng những
cơn mưa ào ạt trên nông trường Lê Minh Xuân, An Phú…
Cùng đồng đội bước qua những gian khổ, nhưng vẫn có những đêm một mình ngắm sao
bên bờ suối vắng, hoặc những chiều bấm đàn bên dòng kênh mới đào trên cánh đồng
bao la… tôi bỗng bâng khuâng nhớ về quê ngoại lạ lùng. Tôi nhớ cù lao Tân Thới,
nơi gắn liền hình ảnh chị Gái và một thời tuổi thơ của tôi thật êm đềm. Nhưng
hình ảnh chị Gái cộm lên trong trí tôi lúc ấy không còn ngây thơ tươi tắn nữa,
nó rúm ró đau thương như nét mặt chị Gái mà tôi đã gặp hôm giỗ Bà.
Tôi đâm lo: "Không hiểu bây giờ ông anh rễ đa
tình kia có hồi tâm, trở về với mái ấm gia đình cùng vợ con chưa?”. Tôi
sợ thời gian và nỗi buồn gậm nhấm, sẽ giết chết đời chị tôi khi tuổi còn xuân
sắc.
Tôi lại mơ một chuyến về quê thăm chị. Vậy mà vừa rời áo
TNXP, tôi chuyển hẳn sang Bộ đội. Mãi đến năm tám mươi chín, tôi trở về thành
phố khi Bộ đội Việt nam đã hoàn thành nghĩa vụ Quốc tế trên đất bạn Kampuchia.
Tôi
nhất định năm đó sẽ về Tân thới giỗ bà, dịp ấy chắc chắn sẽ gặp lại chị Gái;
nhưng mẹ tôi cho biết: cách nay hai năm cậu Út đã qua đời sau một cơn bạo bệnh,
không bao lâu mợ Út đi thêm bước nữa, nên mẹ mới rước bà về Thành phố giỗ. Tôi
nghĩ và thương chị Gái vô cùng. Chưa kịp làm một chuyến viễn du thăm chị, thì
tôi có giấy báo gọi vào trường Đại
Học.
Ra trường tôi cưới vợ, một cô giáo ngoại thành. Rồi ba
tôi mất. Bấy giờ tôi là thằng đàn ông trụ cột của gia đình, phải đương đầu với
bao lo toan: cơm, áo, gạo, tiền…Lo cho mẹ già, cho vợ và cho cả hai đứa con
đang tuổi ăn tuổi học…Đôi lúc tôi cảm thấy chóng mặt trước cơ chế thị trường…
dần dần, hình ảnh quê Ngoại và chị Gái đã lu mờ trong tôi.
* * *
Tháp tùng phái đoàn của một doanh nghiệp về khánh thành khu du lịch tại Gò
Công, trong lúc trà dư tửu hậu, tôi "đánh hơi” vùng bên có mô hình
"Xóa đói giảm nghèo” làm ăn rất khá, địa phương rất quan tâm, muốn lấy đó
làm điển hình để nhân rộng.
Đáp ứng yêu cầu của tôi, anh Hào –cán bộ Ủy ban
huyện gọi điện liên hệ với Xí nghiệp may thêu ‘Nắng Sớm’. Trước khi tôi tìm đến
Xí nghiệp, anh Hào, bỏ nhỏ:
- Đây
là mô hình xóa đói giảm nghèo làm ăn rất ổn định và tương đối nổi bật nhất
trong huyện. Bằng nghiệp vụ của mình, anh khéo mà khai thác. Tuy rất vui vẻ cởi
mở với đối tác cũng như với công nhân trong xí ngiệp, nhưng khi tiếp xúc nhà
báo lại không thích nói về mình, đó là đặc điểm của vị nữ Giám đốc này.
Tôi
vốn sợ những cá nhân nói về mình hay đơn vị bằng những bảng báo cáo thành tích,
bởi nó tròn trĩnh và khô khan làm sao. Tôi thích tiếp xúc và tìm hiểu họ qua
những câu chuyện gần như tâm tình, ở đó mới bật lên những ngỏ ngách, những suy
nghĩ riêng tư… Thế nên thoạt nghe anh Hào nói, tôi bỗng có cảm tình ngay với vị
nữ Giám Đốc mà tôi sắp gặp. Tôi tin vào khả năng mình, sẽ hoàn thành được bài
Phóng sự như ý sau chuyến đi… nhưng điều tôi không thể ngờ được – người
tôi cần gặp – lại chính là chị Gái của tôi.
Tất
cả … vừa xảy ra, đối với tôi như một chuyện cổ tích.
Đưa tôi sang phòng làm việc của mình, chị Gái vồn vả:
- Vĩnh
cứ ngồi nghỉ một lát, chị sẽ dẫn Vĩnh về nhà nấu cơm, chưng mắm đồng đãi Vĩnh
ăn như ngày nào Bà và chị đã đãi Vĩnh vậy.
Tôi
quên sao được, những bữa cơm ăn rau đắng luộc với khúc mắm đồng chưng tớp mỡ,
tiêu, hành, ngọt lịm…. Nhớ hình ảnh bà và chị Gái luôn gắp để vào chén tôi
những miếng mắm thơm và ngon nhất, khiến nước bọt tôi ứa ra đầu lưỡi….
Tôi
ngồi quan sát nơi chị Gái làm việc. Căn phòng tuy nhỏ, đơn sơ mà sạch sẽ,
thoáng mát. Tôi ngắm chị không chớp mắt và nỗi ngạc nhiên đong đầy trong tôi.
Chị
Gái hôm nay tuổi ngoài năm mươi, thân hình đầy đặn của người phụ nữ viên mãn.
Đôi mắt tuy mệt mõi nhưng vẫn còn đen dưới hàng mi rậm. Hai má lấm tấm tàn
nhang, song đôi lúm đồng tiền mãi là duyên của chị.
Phép màu nào đã biến một chị Gái hom hem tiều tụy, đôi
mắt lạc thần của hơn ba mươi năm trước, trở thành chị Gái hôm nay đường bệ trên
chiếc ghế Giám đốc của một Xí nghiệp?
Dòng suy nghĩ đang miên man trong tôi, bất giác chị
Gái thở dài, hỏi:
- Dượng
bệnh thế nào và lâu mau mà qua đời vậy Vĩnh?
- Dạ,
Ba em bị xơ gan trong thời gian em học ở Hà Nội. Hơn một năm thì Ba em mất.
- Vĩnh
với cô có thường về quê Ngoại không?
-
Sau ngày cậu Út qua đời, mẹ em rước bà về trên ấy giỗ. Mà nghĩ lại, mợ Út cũng
tệ thật. Cậu mới mất chưa đầy năm, mợ đã đưa chồng mới về ở nhà, nên mẹ
em buồn…
Đôi
mắt vốn buồn của chị Gái bỗng long lên tia giận dữ:
- Chị
phải đi lấy chồng tức tửi và cuộc đời hơn mười năm khổ hận… cũng vì thiếm Út đó.
Tôi ngạc nhiên đến sững sờ. Bàn tay chị Gái cầm tách
nước run run. Tôi hỏi chị Gái bằng mắt, bằng cả sự im lặng. Chị cười nhạt:
- Hôn
nhân là việc hệ trọng cả đời. Chị làm sao lấy được một người xa lạ không yêu
thương, trong khi……
Đang nói, chợt chị Gái thở dài như nén cơn xúc động,
rồi tiếp:
- Thiếm
Út sợ chị còn ở lại cái nhà ấy lúc nào, là chị hưởng cái gia tài của Bà để lại
lúc ấy, nên ngày đêm thiếm đốc xúi chú Út gã chị. Nhưng thôi…
Chị
Gái mím môi như muốn xóa đi một phút lỡ lời vì nỗi buồn dĩ vãng, bởi chị tôi
chưa quên thời con gái của mình bị chôn vùi trong đau khổ. Chị vội trở lại ngay
bản tính cố hữu của người đàn bà Việt Nam hiền thục, chịu đựng và sẵn
sàng tha thứ. Chị nói tiếp:
- Nhưng
thôi, mỗi người đều có số phận Vĩnh à!
Số
phận ư? Số phận gì mà cay nghiệt vậy? đã đày đọa chị - nghười phụ nữ hiền lành
trong ngần ấy năm chịu đau khổ… Tôi hơi bực dọc:
- Rồi
hai người bỏ nhau bằng cách nào, anh ấy li dị chị à?
Chị Gái buồn bã, lắc đầu:
- Con
người ta khi muốn hướng thiện, muốn vươn lên thì rất khó, có khi phấn đấu cả
đời vẫn chưa tới đích. Còn đã lỡ sa chân rồi, không khéo giữ, chỉ trong nháy
mắt sẽ rơi xuống vực thẳm. Trường hợp của anh Khải là vậy. bao lần cơ quan đoàn
thể kiểm điểm xây dựng, chẳng những anh không hồi tâm, mà còn từ lỗi lầm này
đẩy đến lỗi lầm khác. Cuối cùng từ một Đảng viên từng gan lì trong những năm
chiến tranh gian khổ khốc liệt, để trở thành một kẻ đớn hèn, chối bỏ quê hương…
chui rút, chạy trốn ra nước ngoài nương náu…
- Còn
cháu bé em đã gặp chị bế hồi giỗ bà?
Khuôn
mặt chị Gái sáng lên:
- À,
cháu là Huệ Liên, năm nay ngoài ba mươi rồi. nếu chịu lấy chồng như người ta,
thì bây giờ đã con bế con bồng.
Tôi
nói với chị mà như nói với chính mình:
- Nhanh,
thời gian nhanh thật. Rồi bây giờ cháu làm gì hở chị?
- Ôi,
những năm tuổi thơ sống với mẹ quá khổ, nên lớn lên cháu chăm học lắm. Tốt
nghiệp Đại học kinh tế, ra trừơng vừa làm việc ở một công ty trên thành phố,
vừa học Cao học. Giờ cháu đang đi nghiên cứu sinh Tiến sĩ ở Bỉ mới hơn một năm.
Tôi không giấu được niềm vui:
- Bây
giờ chị Gái của em là người hạnh phúc nhất rồi.
Đang
vui, chị Gái chợt ngưng cười:
- Chị
sống bằng niềm tin và súc lực của chính mình. Chị thường dạy cháu Liên như vậy.
Nhìn
chị Gái, đắn đo một lúc, tôi hỏi:
- Còn
chuyện này, em muốn chị trả lời thật nhé: Anh hàng xóm ngày xưa… yêu chị, bây
giờ ra sao, gia thất có đề huề?
Chị
Gái nhíu mày như suy nghĩ sau câu hỏi của tôi. Chợt chị cười, nụ cười buồn hơn
nước mắt:
- À,
em muốn hỏi anh Thiện, người chạy sang băng giúp vết thương cho em dạo ấy?
Tôi
gật đầu, chị nói tiếp:
- Lúc
đó anh Thiện học ngoài thị xã, cũng về quê nghỉ hè như em. Rồi đang học năm
nhất Đại học Nông Nghiệp tại Cần Thơ, nghe tin chị sắp lấy chồng, anh vội về.
Hôm đó chị mượn cớ đi xay lúa, anh Thiện bơi xuồng đưa chị ra vàm, trông
anh buồn đến thẩn thờ. Sự bất lực của hai đứa, cứ kéo dài bằng thời gian im
lặng. Cuối cùng như tìm ra lối thóat, anh bảo: " Để anh đưa ba má sang nhà
thưa chú thiếm Út, tụi mình cưới nhau em nha!”. Nhưng Vĩnh biết rồi đó, một lời
hứa của chú thiếm Út với người khác, là đời chị xem như ván đã đóng thuyền.
Chị
về quê chồng được vài tháng, lại hay tin: anh Thiện "bỏ Đời theo Đạo”. Anh
đã xuất gia. Giờ anh là một Đại Đức, nghe đâu đang trụ ở ngôi chùa nào đó ngoài
Vũng Tàu….
Chị
Gái vẫn cười. Nhìn nụ cười của chị, tôi thấy tím cả tim gan. Tôi hiểu, trong
lòng chị - những tình cảm ngọt ngào ngày xưa chưa thể mất, nhưng trứơc mắt:
Đạo – Đời, đã hai lối rẽ.
Tôi
sợ càng đào sâu quá khứ, càng chất thêm nỗi buồn trong lòng chị Gái, nên trở
lại hiện tại, tôi hỏi:
- Chị
Gái à, rồi từ một tuổi trẻ đau khổ là vậy, chị phải bắt đầu như thế nào để ngày
nay ngồi đỉnh đạc trên chiếc ghế Giám Đốc?
- Chà,
lại giở ngón nghề ra với chị phải không?
Chị
Gái đứng dậy, cười giòn:
- Này,
em hãy gọi điện về báo cho cô và gia đình yên tâm, rồi đèo chị ra chợ mua thức
ăn, không khéo chợ tan đó. Còn chuyện ấy, nhất định chị sẽ trả lời Vĩnh sau bữa
cơm, với tư cách người được phỏng vấn. Thôi, đi em.
Chị
Gái cầm chìa khóa xe. Tôi bước theo chị giữa hàng trăm chiếc máy khâu đang thao
tác. Tiếng máy khâu, tiếng dập khuy, tiếng máy cắt … tạo thành một hợp âm rất
vui tai. Giống như ngày nào dưới cơn mưa tháng sáu mát trời mát đất - thằng bé
thành phố trắng trẻo ốm yếu - là tôi, xách thùng lon ton chạy theo chị đi rẫy
bắt còng, bắt ốc
PNH
-------------
Đã có tin giàn khoan TQ được kéo tới vùng biển Việt nam. Tại sao Bồng chưa biết.
Trả lờiXóaHành động đó phải được coi như là xâm lược !!!
Bài viết hay quá; bao giờ cho đến ngày xưa?
Trả lờiXóaTôi bằng tuổi với nhân vật nhà báo.Nhưng câu chuyện trong bức tranh kia mới đẹp làm sao.Thật đáng sống...
Trả lờiXóa