http://dieusinh.blogspot.com/2013/06/em-ve-hu-vo-for-my.html
--------------------------------
|
07:38 (39 phút trước)
|
|||
|
Dear All
Gs Nguyễn Lang U90 nhưng vẫn rất minh mẫn, tâm huyết bàn
về việc nước. GS mới có bài viết bàn về tính giá đất đăng trên Tầm Nhìn ngày
22/6/2013 rất đáng suy ngẫm. Các vị lãnh đạo có trách nhiệm, các công bộc của
dân có quyền biểu quyết sửa luật đất đai, đặc biệt ông Bộ trưởng Nguyễn Minh
Quang nên dành thời gian đọc, ngẫm suy...để mà đi vào thực chất của việc sửa
luật đất đai trên các luận cứ khoa học và hợp lòng dân.
Nhân đọc bài tôi mới viết "Tái cơ cấu công tác quy
hoạch" Gs Nguyễn Lang đã gửi phản hồi bình luận, xin chuyển tiếp để
các anh chị và các bạn tham khảo.
Tô Văn Trường
----- Forwarded
Message -----
From: Lang Nguyen <nguyenlang1927@yahoo.com.vn>
To: "tovantruong1948@yahoo.com" <tovantruong1948@yahoo.com>
Sent: Monday, 24 June 2013, 18:27
Subject: Về: FYI Tái cơ cấu công tác quy hoạch
From: Lang Nguyen <nguyenlang1927@yahoo.com.vn>
To: "tovantruong1948@yahoo.com" <tovantruong1948@yahoo.com>
Sent: Monday, 24 June 2013, 18:27
Subject: Về: FYI Tái cơ cấu công tác quy hoạch
1 - Tôi cũng rất băn khoăn về công tác quy hoạch. Có mấy quy hoạch lớn là
quy hoạch phát triển các ngành kinh tế nhằm bảo đảm sự phát triển cân đối liên
ngành, khắc phục những mất cân đối lớn dẫn đến các cuộc khủng hoảng bộ phận và
khủng hoảng chung của nền kinh tế. Hiện ngành thủy sản cũng đang mắc, bào Nhân
Dân ngày 14/2013 có bài chuyên đề về vấn đề này nhưng, theo tôi, chưa xác định
đúng nguyên nhân dẫn đến mắc míu mất cân đối cung - cầu (một mất cân đối không
chỉ của riêng ngành thủy sản). Trong lĩnh vực này, mối quan hệ cân đối liên
ngành cũng không được chú ý đúng mức nên nền kinh tế nước ta trở thành nền kinh
tế gia công cho nước ngoài và tuy có đề ra nhiệm vụ phát triển các ngành công
nghiệp hỗ trợ nhưng chỉ mới dừng lại ở trên giấy.......
Ngoài ra, còn có vấn đề quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của từng vùng lãnh
thổ, địa phương. Đây cũng là vấn đề lớn liên quan đến chủ trương đầu tư vào
cảng Lạch Huyện (được anh quan tâm nhiều), đến bô-xít Tây nguyên, đến dự án nhà
máy lọc hóa dầu Nhân Hội, .... Bản thân dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6A
cũng là một minh họa.
Lại có vấn đề phải thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành kinh tế-kỹ
thuật với quản lý theo vùng lãnh thổ, địa phương, một vấn đề được đặt ra từ
thập kỷ 60 của thế kỷ XX nhưng đến nay cũng không được giải quyết.?
Lại còn vấn đề tuy cần thiết phải thực hiện phân cấp trong quản lý nhưng phải
quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong thực tế, nguyên tắc này cũng
không được nhận thức đúng. F.Ăng ghen đã kết luận là không chấp nhận quyền uy
trong công nghiệp thì có nghĩa là từ nhà máy sợi quay trở về cái xa quay tơ.
Ông dẫn chứng để con tầu vượt đại dương có thể xuất biến, vượt đại dương để cập
bến an toàn thì toàn bộ thủy thủ và khách đi tầu phải phục tùng mệnh lệnh của
thuyền trưởng nhưng không phải thuyền trưởng quy định cụ thể là người nào cũng
phải nhất nhất làm cái gì đó một cách thụ động. V.I.Lê nin thì lại lấy ví dụ
của sự vận hành hệ thống xe lửa để minh họa kết luận của F.Ăng ghen. Đấy cũng
là căn cứ khoa học và thực tiễn dẫn đến TBT Trọng đã phải phát biểu trong
lời bế mạc Hội nghị TƯ 3, Khóa XI là QUY TRÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG,
TỔ CHỨC ĐIỀU HÀNH THỰC HIỆN QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH PHẢI THỰC SỰ KHOA HỌC, ĐI TỪ
TỔNG THỂ CHUNG CỦA CẢ NƯỚC, ĐẾN CÁC VÚNG LÃNH THỔ, RỒI MỚI ĐẾN TỪNG ĐỊA PHƯƠNG
CƠ SỞ.(Văn kiện Hội nghị TƯ 3, Khóa XI, trang 247)
2 - Liên quan đến quy hoạch cụ thể mà anh đề cập đến trong bài này, tôi thấy
phải chăng là chúng ta đang ở tình trạng cứ xây dựng các quy hoạch, kế hoạch mà
không có tổng kết, đánh giá một cách có căn cứ khoa học và thực tiễn những gì
đã làm. Cụ thể là mới xẩy ra tình tranh Hội đồng lý luận Trung ương họp để bàn
và triển khai đề tài nghiên cứu về ĐỊNH HƯỚNG XHCN TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ VN
(MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC TIỄN MỚI ĐANG DIỄN RA) và coi đó là bước khởi đầu
cho việc tổng kết 30 năm đổi mới, chuẩn bị luận cứ khoa học cho Đại hội XII.
Trong khi đó thì đã có nhiều ý kiến khác nhau kéo dài một cách bất thường về
những vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự
thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách,
điều hành (được ghi nhận tại văn kiện Đại hội IX, tr 65 , ĐH X, tr 77, ĐH XI,
tr 172-173) và được thể hiện trong quá trình góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp
1992. Trong tình trạng đó, đáng ra Hội đồng lý luận TƯ phải tập trung xử lý các
vấn đề chưa nhất trí đó thì mới có khả năng tổng kết 30 năm đổi mới, chuẩn bị
luận cứ khoa học cho Đại hội XII thế nhưng Hội đồng lý luận TƯ đã bỏ qua nhiệm
vụ tổng kết thực tiễn về thực trạng phân liệt về tư tưởng quan điểm kéo dài mà
chỉ "háo hức" đi ngay vào dự báo mà không rõ hiện ta đang ở đâu và
đang thế nào, vì sao lại thế, ...?
Ngày 24/6/2013 tội nhận được bản dự thảo của Bộ Tài chính, dự thảo "Luật
quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp". Không có bản tổng
kết làm rõ thực trạng nên nội dung vừa mang tính vi hiến, vừa không gắn được
với nhiệu vụ tái cơ cấu vốn đầu tư.
Thói quen không đi từ tổng kết cũng được thể hiện trong việc không tổng kết
việc thí điểm cổ phần hóa donh nghiệp nhà nước , tổng kết thí điểm việc thành
lập các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước, bỏ Hội đồng nhân dân quận,
huyện, thị xã một cách có căn cứ khoa học đã vội cứ triển khai mở rộng.
Xin được
lạm bàn như vậy, mong anh thông cảm.
24/6/2013
Nguyễn Lang
Về việc tính giá đất
Thứ bảy, 22/6/2013 16:38 GMT+7
Bản in ấnEmail
Cỡ chữ
Ý kiến bình luận (0)
Khi
tiến hành góp ý dự thảo Luật đất đai sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 của UB TV Quốc
hội K XIII, vấn đề xác định giá đất là một vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau, có
thể nói là xung quanh việc điều chỉnh nguyên tắc xác định giá đất tại điều 56,
khoản 1a) của Luật đất đai 2003. Cần đi tới một sự thống nhất ý kiến để từ đó
xác định được giá đất một cách có căn cứ khoa học và thực tiễn. Về vấn đề này,
xin có một số kiến nghị chủ yếu sau đây.
1 - Về cơ bản, giữ nguyên các điều 39, 40 của Luật đất đai
2003 quy định trường hợp Nhà nước thực hiện thu hồi chuyển dịch mục đích sử
dụng đất vì nhu cầu chung của xã hội và trường hợp nhà đầu tư được thực hiện
các đề án chuyển đổi mục đích sử dụng đất để thực hiện mục tiêu sản xuất kinh
doanh của mình. Sự khác biệt đó liên quan đến việc xác định giá đền bù đất bị
thu hồi để chuyển đổi mục đích sử dụng. Mặt khác, Nhà nước chỉ tham gia giải
phóng mặt bằng để tạo quỹ “đất sạch” theo điều 39 và điều 40, khoản 1. Còn đối
với trường hợp điều 40, khoản 2 thì việc giải phóng mặt bằng để tạo quỹ “đất
sạch” là do nhà đầu tư trực tiếp thương thảo với người dân đang sử dụng đất.
2 - Bổ sung vào Chương II, mục 6, điểu 56, khoản 1a) về
việc Nhà nước xác định giá đền bù đất thu hồi theo:
- Không chấp nhận điều chỉnh theo kiến nghị của dự thảo về
sửa nguyên tắc xác định giá đất theo “phù hợp với giá thị trường” chủ yếu vì
không thể hiện được nhiệm vụ quản lý thị trường của Nhà nước mà lại chạy theo
bàn tay vô hình của thị trường. Cách sửa đổi như dự thảo gây cảm tưởng dường
như kiến nghị sửa đổi đó chịu ảnh hưởng của nhóm lợi ích đang đầu cơ thao túng
thị trường đất đai, tạo nên những giá ảo ngày càng tăng. Do đó nếu giá đất do
Nhà nước quy định phải phù hợp với giá thị trường thì cũng có nghĩa là giá đó
phải được liên tục điều chỉnh theo sự tăng giá ảo trên thị trường, dưới tác
động của nhóm lợi ích, phủ nhận vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước.
- Bổ sung nguyên tắc đảm bảo cho người có đất bị thu hồi
có điều kiện và mức sống tối thiểu bằng trước khi thu hồi đất để chuyển đổi mục
đích sử dụng.
- Bổ xung nguyên tắc thực hiện điều tiết thu nhập của nhà
đầu tư theo nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất, hài hòa lợi ích chính đáng giữa
nhà đầu tư với người có đất bị chuyển đổi mục đích sử dụng và Nhà nước. Qua đó
không để phát sinh và kéo dài lợi nhuận siêu ngạch để các nhà đầu tư đổ xô vào
thị trường này dẫn đến sự mất ổn định của nền kinh tế vĩ mô, đến những bất ổn
về an sinh xã hội.
Dưới đây, xin giải trình lý do chủ yếu dẫn đến kiến nghị
trên.
1 – Căn cứ vào điều 4, khoản 23 của Luật đất đai 2003 thì
“Giá quyền sử dụng đất (sau đây gọi là giá đất) ….” thì cần nhận thức rõ là giá
đất chỉ liên quan đến giao dịch mua – bán quyền sử dụng đất chứ không liên quan
đến giao dịch mua – bán quyền sở hữu đất. Có thể vì không nhận thức đúng mức
đặc điểm đó nên đã dẫn đến quan điểm sai lầm là coi việc giao quyền sử dụng đất
đồng nhất với giao quyền sở hữu đất.
2 – Cần nhận thức rõ hơn căn cứ khoa học và thực tiễn được
sử dụng để xác định giá cả hàng hóa nói chung, giá cả của hàng hóa – quyền sử
dụng đất nói riêng. Theo đó thì:
- Xuất phát từ cơ sở khoa học là “(i) chỉ khi một vật thể
có giá trị sử dụng thì mới có giá trị và trở thành hàng hóa. (ii) Giá trị của
hàng hóa phụ thuộc vào hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng
hóa đó. (iii) Giá cả phụ thuộc vào mối quan hệ cung - cầu nên giá cả của hàng
hóa xoay quanh giá trị nhưng tổng giá trị của loại hàng hóa đó bằng tổng giá
trị của hàng hóa. Mối quan hệ cung – cầu có thể được hình thành và xác định qua
con đường hoặc hình thành một cách tự phát qua bàn tay vô hình của thị trường
nên là nguyên nhân dẫn đến những mất cân đối, đên các cuộc khủng hoảng. Hoặc
Nhà nước phải đứng ra khắc phục tính tự phát của bàn tay vô hình của thị trường
để ổn định quan hệ cung – cầu, bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
(iv) Nhà nước phải thực hiện vai trò quản lý đối với nền kinh tế thị trường nói
chung, đối với giá cả nói riêng.
Vai trò này đã được F. Ăng ghen xác định là con đường khắc
phục tính tự phát, vô tổ chức của nền kinh tế là “vô luận như thế nào, có tờ
rớt hay không có tờ rớt, thì cuối cùng, đại biểu chính thức của xã hội tư bản
chủ nghĩa, tức là nhà nước, cũng buộc phải đảm đương việc lãnh đạo sản xuẩt”.
(Tuyển tập Mác – Ăng ghen, tập V, Nhà Xuất bản Sự Thật 1983, tr 609). Sau này,
giai cấp tư sản cũng đã phải xác nhận luận điểm này của F. Ăng ghen với việc
công nhận và vận dụng học thuyết cảu J. Keynes về vai trò của Nhà nước.
- Xuất phát từ thực tiễn của Việt nam. Nền kinh tế thị
trường của Việt nam là nền KTTT định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước.
Theo đó thì giá điện và giá đất là những giá chịu sự quản lý của Nhà nước. Theo
quy định hiện hành thì giá điện được điều chỉnh khi các yếu tố đầu vào tức giá
điện phải được xác định căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết, phù hợp
với những cơ sở lý luận đã được nêu ở trên. Trong khi đó thì, theo dự thảo của
Luật đất đai sửa đối, thì giá đất được Nhà nước xác định phù hợp với giá thị
trường tức giá điện do nhà nước xác định lại phụ thuộc vào giá thị trường chứ
không phụ thuộc vào các căn cứ khoa học được dẫn ở trên.
3 – Vì sao việc quản lý Nhà nước đối với giá điện và đối với giá đất lại có sự khác biệt đó? Sơ bộ, xin được gợi một số ý chính sau đây:
3 – Vì sao việc quản lý Nhà nước đối với giá điện và đối với giá đất lại có sự khác biệt đó? Sơ bộ, xin được gợi một số ý chính sau đây:
- Về mặt khách quan, giá trị sử dụng của đất đa dạng hơn
giá trị sử dụng của điện nên giá đất không thể có sự thống nhất như với giá
điện. Có thể nói là điện năng có giá trị sử dụng duy nhất là cung cấp năng
lượng cho người sử dụng. Trong khi đó thì đất lại có giá trị sử dụng khác nhau
tùy thuộc vào mục đích sử dụng. Đất sử dụng vào mục đích để làm nhà ở có giá
trị sử dụng khác với đất dùng vào mục đích kinh doanh. Mặt khác, bản thân đất
sử dụng vào mục đích kinh doanh cũng có giá trị sử dụng khác nhau, tùy thuộc
vào nội dung kinh doanh. Chẳng hạn đất dùng vào việc kinh doanh bất động sản,
khinh doanh làm sân gôn, kinh doanh xây dựng khu vui chơi giải trí,…. cũng có
giá trị sử dụng, và qua đó, có giá trị, giá cả khác nhau. Theo số liệu thống kê
năm 2009 thì 1 ha đất sử dụng vào sản xuất nông nghiệp chỉ đem lại 9,1 triệu
đồng/năm trong khi cũng là 1 ha đất sử dụng vào mục đích sản xuất phi nông
nghiệp lại đem lại 2,1 tỷ đồng/năm, tạo ra khoản lợi nhuận siêu ngạch.
- Thực trạng đó đòi hỏi phải có cách tính giá đất, trước
và sau khi thực hiện việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất để từ đó xác định
chênh lệch hợp lý về giá cả, loại bỏ yếu tố đầu cơ trục lợi làm tăng giá một
cách không hợp lý để dẫn đến những khoản lợi nhuện siêu ngạch. Trên cơ sở đó
phân phối mức chênh lệch giá cho những người tham gia vào quá trình thực hiện
mục đích chuyển đổi mục đích sử dụng theo tinh thần bảo đảm kết hợp hài hòa lợi
ích kinh tế giữa các bên tham gia.
- Tuy việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất rất đa dạng nên
việc xác định giá trị sử dụng, giá trị và giá cả đất có khác nhau nhưng có thể
quy về 2 trường hợp cơ bản, đã được thể chế hóa trong Luật đất đai 2003 là :
(i) Theo điều 39 và điều 40, khoản 1, chuyển dịch mục đích thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và
phát triển kinh tế, với các bên liên quan là Nhà nước và người đang có quyền sử
dựng đất bị chuyển đổi mục đích sử dụng. Trong trường hợp này, Nhà nước đứng ra
thực hiện việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất và giá cả đền bù phải theo
nguyên tắc đảm bảo cho người dân có đất bị thu hồi phải có được điều kiện và
mức sống tối thiểu ngang bằng mức sống hiện tại của người đó.
Nói cách khác, Nhà nước xác định giá cả đền bù đất bị thu hồi để chuyển đổi mục đích sử dụng theo nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất lợi ích giữa Nhà nước với người dân. (ii) Theo điều 40, khoản 2, các nhà đầu tư thực hiện việc chuyển dịch mục đích sử dụng đất để thực hiện các dự án đã được phê duyệt và các bên liên quan là nhà đầu tư và người đang có quyền sử dụng đất bị chuyển đổi mục đích sử dụng. Trong trường hợp này, giá đền bù để thực hiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất là phải được sự thỏa thuận giữa đôi bên, theo nguyên tắc như đã nêu ở trường hợp trên. Nhưng vì có lợi nhuận siêu ngạch nên cần bổ xung thêm nguyên tắc đảm bảo hài hòa lợi ích chính đáng, hợp pháp của chủ đầu tư, người bị thu hồi đất và Nhà nước. Sở dĩ phải thêm nguyên tắc đó vì chênh lệch thu nhập có được do chuyển đổi mục đích sử dụng đất có thể lên đến 230 lần như trường hợp đã dẫn ở trên.
Nói cách khác, Nhà nước xác định giá cả đền bù đất bị thu hồi để chuyển đổi mục đích sử dụng theo nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất lợi ích giữa Nhà nước với người dân. (ii) Theo điều 40, khoản 2, các nhà đầu tư thực hiện việc chuyển dịch mục đích sử dụng đất để thực hiện các dự án đã được phê duyệt và các bên liên quan là nhà đầu tư và người đang có quyền sử dụng đất bị chuyển đổi mục đích sử dụng. Trong trường hợp này, giá đền bù để thực hiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất là phải được sự thỏa thuận giữa đôi bên, theo nguyên tắc như đã nêu ở trường hợp trên. Nhưng vì có lợi nhuận siêu ngạch nên cần bổ xung thêm nguyên tắc đảm bảo hài hòa lợi ích chính đáng, hợp pháp của chủ đầu tư, người bị thu hồi đất và Nhà nước. Sở dĩ phải thêm nguyên tắc đó vì chênh lệch thu nhập có được do chuyển đổi mục đích sử dụng đất có thể lên đến 230 lần như trường hợp đã dẫn ở trên.
Mức chênh lệch này dẫn đến việc hình thành lợi nhuận siêu
ngạch nên Nhà nước phải đứng ra điều tiết thu nhập này để vừa đảm bảo không cho
các nhà đầu tư đổ xô vào hoạt động kinh doanh này, dẫn đến các mất cân đối vĩ
mô, đến các bong bóng trên thị trường làm cho nền kinh tế đi vào con đường phát
triển không ổn định, vừa dẫn đến sự bất bình đẳng về lợi ích, dẫn đến khiếu
kiện về đất đai và những hệ quả khác kèm theo như đã thấy. Nói cách khác, Nhà
nước không đứng ra quy định giá cả đền bù mà đứng ra vừa làm trọng tài giữa chủ
đầu tư và người bị thu hồi đất để chuyển đổi mục đích sử dụng đất, vừa đảm bảo
thực hiện sự thống nhất lợi ích của chủ đầu tư, người có đất bị thu hồi và Nhà
nước.
- Chính vì thế nên vai trò quản lý của Nhà nước trên thị
trường đất đai, cụ thể là trong lĩnh vực xác định giá đất có mấy điểm cần chú ý
xem xét đúng mức hơn : (i) Nhà nước phải đứng ra xác định giá đất một cách có
căn cứ khoa học và thực tiễn chứ không thể xác định giá đất phù hợp với giá thị
trường vì như thế là đã mặc nhiên phụ thuộc vào bàn tay vô hình của thị trường.
(ii) Vì đất có thể được sử dụng vào những mục đích khác nhau, dẫn đến những sự
khác biệt khá lớn về giá trị sử dụng, giá trị và giá cả. Đồng thời trên thị
trường đất đai, lại có hoạt động đầu cơ, tạo ra những giá trị và giá cả ảo dẫn
đến những lợi nhuận siêu ngạch với những tồn tại bức xúc gây mất ổn định không
chỉ của nền kinh tế mà còn gây mất ổn định về an sinh xã hội.
Do đó vai trò quản lý của Nhà nước đối với giá cả đất chuyển đổi quyền sử dụng là tập trung vảo đảm bảo sự thống nhất, hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người có đất bị chuyển đổi mục đích sử dụng và nhà đầu tư, phù hợp với điều 39, 40 của Luật đất đai 2003 như đã góp ý ở trên.
Do đó vai trò quản lý của Nhà nước đối với giá cả đất chuyển đổi quyền sử dụng là tập trung vảo đảm bảo sự thống nhất, hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người có đất bị chuyển đổi mục đích sử dụng và nhà đầu tư, phù hợp với điều 39, 40 của Luật đất đai 2003 như đã góp ý ở trên.
N.Lang
--------------
12:06 (11 phút trước)
| ||||
----- Forwarded Message -----
From: Tuong Lai <tnglai@gmail.com>
To: To Van Truong <tovantruong1948@yahoo.com>
Sent: Tuesday, 25 June 2013, 10:51
Subject: gửi thư
To: To Van Truong <tovantruong1948@yahoo.com>
Sent: Tuesday, 25 June 2013, 10:51
Subject: gửi thư
Trường thân mến,
Đoc mấy bài viết của Trường, suy nghĩ mông lung.
Hôm qua đi viếng GS Dương Quang Trung, ngồi nói chuyện với Hiếu Dân và cháu Xuân Hà [cháu ngoại ông Sáu Dân], nhắc đến Trường, càng nhớ ông Sáu. Lẩn thẩn gộp mấy bài báo vừa đăng gửi Trường đọc cho vui. [Trong này có bài Trường đã đọc, cư gộp lại cho có hệ thống một suy tư]
Rất thân mếnĐoc mấy bài viết của Trường, suy nghĩ mông lung.
Hôm qua đi viếng GS Dương Quang Trung, ngồi nói chuyện với Hiếu Dân và cháu Xuân Hà [cháu ngoại ông Sáu Dân], nhắc đến Trường, càng nhớ ông Sáu. Lẩn thẩn gộp mấy bài báo vừa đăng gửi Trường đọc cho vui. [Trong này có bài Trường đã đọc, cư gộp lại cho có hệ thống một suy tư]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét