*
BÙI VĂN BỒNG
Muốn
biện minh, lý giải, đưa ra những ‘biện chứng, khách quan, bối cảnh, tình hình”
kiểu gì; cho dù nhét lý luận vào ý định chủ quan rồi biện lý ‘quy luật’ này,
‘phạm trù’ kia để cho là ‘thực tiễn, khoa
học’, thì cái Quyết định
244 quy định danh sách nhân sự sắp sẵn ‘dội
từ trên xuống’ là sự trắng trợn tiếm quyền lãnh đạo cho cá nhân, phe nhóm,
sự áp đặt chủ quan rõ nét. Làm như thế, vừa thẳng cánh vi phạm nguyên tắc, điều
lệ đảng, lại mất dân chủ (ngay trong
đảng) rất nghiêm trọng.
Mới đây nhất, TBT Nguyễn Phú
Trọng lại “bật mí” với ‘toàn đảng’ những từ chung chung, trừu tượng như: vì
“Đại cục” (bắt chước Trung Quốc), “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”…(Vậy, đã
“khách quan, biện chứng” chưa? Quan điểm thực tiễn ở đâu?).
Nghị quyết của đảng xưa nay nặng về ‘thuyết minh câu chữ’ cho kêu, cho hay, tự
ca ngợi thành tích một chiều, thắng lợi, thành công tốt đẹp…nhưng không sát
thực tế nền kinh tế, văn hóa, xã hội và nhiều vẫn đề khác trong cuộc sống.
Nhưng ngay cái cách khóa trước chọn nhân sự cho khóa sau, không cần qua đại hội,
lập ‘danh sách đóng đinh, kẹp chì’
rồi bắt bên dưới phải bầu. Không một đảng viên nào, kể cả Ủy viên Ban chấp hành
Trung ương, Thường vụ các cấp từ trên xuống dưới được đề cử hay ứng cư thêm ai ngoài danh sách
đã chốt chặt, mặc định sẵn.
Thế thì nguyên tắc, điều lệ gì? Sao mà đến nhân sự
cũng cố tình thoát ly khỏi thực tế, chỉ từ một hoặc vài mấy cái đầu phe nhóm
chụm lại, bàn xong thì “Number One”,
xong, tuy chỉ nằm trên giấy, nhưng thuộc diện ‘bỏ cối không trật’.
Đó là sự nguy hiểm khi lãnh đạo đảng coi thường thực
tiễn, nhất là thực tiễn cơ sở. Bộ chính trị cũng như các cấp Thường vụ khóa mới
thì chỉ khoanh trong ‘bộ sậu’ cũ, như diễn viên chuyên nghiệp đoàn kịch-phim,
chỉ khác: Thay vai mà thôi!
Vậy, hoá ra, khi học về triết học Mác-Lê, thầy dạy cứ
nhân mạnh “Thực tiễn là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt toàn bộ tư tưởng Mác”, nhưng nay họ coi thực tiễn chẳng là cái đinh gì?
Có những vấn đề lý luận thấy phân tích cũng hay, nhưng
khi nhìn vào thực tế lại thấy lý luận vẫn một đường, thực tế lại nằm ở nẻo
khác. Đọc Nghị quyêt thì hầu như cả chục năm sau nhiều nội dung vẫn thấy giống
nhau, sự rập khuôn, công thức, na ná, phần nhiều soạn lai kiểu ‘tầm chương
trích cú’ rất khó chịu, nhàm! Trong khi thực tiễn cuộc sống lại không ngừng
biến đổi. Cho nên, mỗi khi tự đem soi lý luận với thực tự cuộc sống, thấy vẫn
còn nhiều tắc, vướng, có những điều còn khó lý giải, nhất là từ cảm thụ, nhận
thức, suy lý đến quan sát.
Tôi vẫn ghi nhận cái lý đúng đã được đức kết: “Lý luận thì xám xịt, mà cây đời mãi mãi
xanh tươi”. Một suy nghĩ khác mà tôi cũng phải tự nhắc mình phải rất thận
trọng, phải nghĩ đi nghĩ lại. Đó là khi nói đến cộng sản, một chủ nghĩa, một lý
tưởng thường chỉ được ngợi ca một chiều như phụng sự. Một thời khá dài, cả mấy
chục thập niên, mỗi khi nói đến Đảng cộng sản cần phải biết có chạm ‘vấn đề
nhạy cảm’ hay không? Nói đụng đến còn e dè, sợ sệt hơn đụng vào bệ Thánh, tượng
Phật, “đụng” đến sự thiêng liêng nào đó
ghê gớm lắm. Mà nếu nói đến Đảng cộng sản phải nói và viết theo những gì người
ta (ý kiến bí thư, thường vụ, nhà lãnh
đạo, nhà giáo huấn, nhà tổ chức) đã nói và viết, phải đúng đường lối, đúng
nghị quyết, không cẩn thận sẽ bị đánh giá là sai quan điểm, đường lối, sai
nguyên tắc quy định, nói sai nghị quyết, và không khéo bị truy chụp là chống
Đảng, bị nhắc nhỏ, xem xét, nặng hơn là đưa ra kỷ luật, thậm chí lập tức hốt
liền, nhốt ngay, truy tố, lôi các điều 258, 88, 79 trong Bộ luật hình sự ra
chụp thẳng lên đầu.
Thử hỏi các nhà ăn lương chuyên viết nghị quyết đảng: khi
đặt ra yêu cầu mọi người phải tin và làm theo đường lối, liệu đã chắc chắn rằng
đường lối như thế là đúng nhất, là chuẩn xác, là hay nhất, sát với thực tiễn
đời sống xã hội hay chưa? Nếu chỉ là ‘suy ngẫm trên đường phố, viết lách trong
phòng lạnh, mắt dán vào đống sach, giấy’ thì rõ ràng thiếu hẳn thực tiễn đời
sống đang diễn ra sội động hàng ngày. Cái bản chất vốn có như trời sinh ra là
cuộc sống xã hội sinh động, phong phú, không ngừng biến động, lại bị đưa vào
những câu chữ lý luận khô cứng, sáo mòn, rập khuôn đến mức bị đứng im, đóng
khung bất động. Chỉ riêng như vậy cũng là sự thể hiện không biện chứng về các
quy luật, phạm trù: Vận động và đứng im;
sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập; về nguyên nhân và
kết quả…Mà những thứ quy luật, phạm trù này có lẽ ít ai thuộc làu làu bằng
nhà giáo triết-chính trị, GS.TS Xây dựng đảng Nguyễn Phú Trọng.
Chỉ có từ trong thực tiễn mới thể hiện những diễn biến
nội tại trong những quy luật vận động của tự nhiên và xã hội. Viết như trên
đây, nếu như ai đó đánh giá là có động cơ xấu với Đảng, trước hết tôi không tán
thành cách nghĩ và cách nhìn áp đặt đầy chủ quan, phiến diện ấy, vì thực chất
người viết bài này xuất phát từ ý thức xây dựng Đảng. Tôn trọng tự do tư tưởng
chính là bản lĩnh cần có ở những người cộng sản, bởi đó chính là vấn đề từ
trong thực tiễn, quy luật của tự nhiên. Tư tưởng con người không phải là bất di
bất dịch, mà luôn luôn thay đổi tùy bối cảnh xã hội và những tác động khách
quan từ cuộc sống. Miệng cứ nói ra rả những “khách
quan, biện chứng” nhưng thoát ly hẳn, xa rời thực tế, ngay trong đảng cũng
không biết phân biệt, đánh giá tốt-xấu, phải-trái, thẳng thắn và nịnh hót, …coi
như đi ngược quy luật, tự phá ngang quy luật.
Người cha Các Mác, ông
Heinrich Mordechai, cũng rất nhạy cảm khi ông biết phải tự chủ, đổi mới,
coi trọng những phát sáng mới về tư tưởng sao cho phù hợp nhất với chính kiến
của mình, trong đó thể hiện tính xu hướng khá rõ. Ông là con người rất thực
tiễn. Ngay như việc theo đạo của ông Heinrich cũng thể hiện chữ “thời” và quan
điểm tự cải biến tư duy rất rõ. Ông có nguồn gốc nhiều đời là giáo sỹ
Do Thái, đã cải đạo sang Ki-tô giáo, dù ông có nhiều xu hướng thần
luận. Nhưng khi luật của nước Phổ không cho phép người Do Thái làm về luật
pháp, ông đổi sang đạo Lutheran. Sự thường trực của chí quyết tự chủ cải biến
tư tưởng suy cho cùng là con người cách mạng. Ông không khô cứng, đã xác định
theo đạo nào là không thay đổi, mà cải đạo nhiều lần trong đời H.Mordechi chính
là sự làm gương về ý thức cách mạng của Các Mác.
Với Các Mác, mọi việc trên dời đêu phải được nhìn nhận
và xem xét từ trong thực tiễn cuộc sống xã hội. Vì thế, “thực tiễn là sợi cho chỉ đỏ” xuyên suốt trong toàn bộ học thuyết
của Mác. Với phẩm chất ấy, Các Mác là người rất nhanh nhạy và ưa đổi mới, con
người thực sự cách mạng. Các Mác viết “Tư bản luận” vào nửa cuối thế kỷ 19, là
dựa trên cấu trúc hiện hữu của nền tảng xã hội thời kỳ đó, dưa trên hạn định tư
tưởng và phương thức sản xuất cũng như diễn biến xã hội, trình độ khoa học kỹ
thuật, trình độ thẩm định và tiếp cần xã hội thời kỳ đó. Nhưng nếu như Các Mác
có viết “Tư bản luận” vào thời kỳ đầu
thế kỷ 21 này chắc chắn ông ta sẽ lược bỏ những lý giải nhât thời mà thêm vào
những luận thuyết mới rất sát với thực tế các nước tư bản trong thời đại toàn
cầu hóa hiện nay. Bởi vì hơn 200 năm trước, Các Mác lấy đâu ra thực tiễn xã hội
hiện nay để đưa vào học thuyết? Nếu như bê nguyên xi những câu Các Mác nói và
viết thời đó, không đem soi vào thực tế xã hội mà bản thân mình đang sống hiện
nay thì rất dễ bị đem cái đã quá xưa, hợp thời lúc đó, tại bối cảnh đó mà áp
đặt vào cái tân thời, nghĩa là sẽ bị lạc hậu hóa từ suy lý và hành động.
Cho nên, cần tránh những xem xét, nhìn nhận nặng về
bảo thủ, giáo điều, một chiều, đánh giá những biểu hiện tự do tư tưởng, những
đề xuất hoặc hành động cải cách, những tư tưởng sáng tạo, mạnh dạn vận dụng lý
luận chính trị-xã hội vào thực tiễn là biểu hiện của “xét lại”, là chống Dảng
(như vụ ông Kim Ngọc là một trong những vị điển hình). Cách nhìn nhận, đánh giá
như vậy là biểu hiện đi trật nguyên lý chủ nghĩa Mác, là sự tự tách rời thực
tiễn, quan liêu cũng từ đó mà ra. Một thực tế cũng cần được ghi nhận là phân
biệt Chủ nghĩa Mác-Lê-nin với câu nói của nhà minh triết.
Chỉ có những người chuyên tâm lý luận đơn thuần, xa
rời thực tế, đem chủ nghĩa Mác phổ truyền một cách khô cứng, rập khuôn, máy
móc, công thức hóa chủ nghĩa Mác-Lê-nin, giáo điều và bắt chước theo kiểu con
vẹt, mới tham mưu cho lãnh đạo những điều mà lẽ ra phải để cho lãnh đạo sáng
tạo, phát huy năng lực từ trong thực tiễn. Bản chất của cách mạng là đổi mới.
Bảo thủ, không đổi mới, hoàn toàn không phải làm cách mạng. “Hệ thống lý luận mở liên tục”, như Các
Mác đã khẳng định trong luận thuyết của mình chính là sự thể hiện tính cách
mạng của lý luận chủ nghĩa Mác-Lê-nin trên những tầm cao mới, với mỗi biến
thiên phát triển tất yếu của các thời đại mới. Do đó, sức sống của chủ nghĩa
Mác là trường tồn và kim chỉ nam cho mọi thời đại. Khi coi lý luận chủ nghĩa
Mác là hệ thống liên tục mở, không chỉ bó hẹp trong các câu chữ một thời, vấn
đề là phải xem các nhà lãnh đạo Đảng cộng sản, kể cả các đảng viên cộng sản,
các vị đứng đầu cấp ủy, chính quyền có thấy cần mở, dám mở, có biết cách mở hay
không mà thôi. Nhận rõ quan điểm này của Các Mác, trên cái nền gọi là “mở” ra
từ lý luận cơ bản ấy, giáo sư Tương Lai đã khẳng định: “Trí tuệ của Các Mác đang chắp cánh cho chúng ta”.
Theo Các Mác, thực tại không phải là một cảnh trạng do ai có thể tự tạo ra nó theo ý định chủ
quan, mà là một tiến trình lịch sử diễn biến mãi không ngừng. Mấu chốt để
nắm bắt thực tại là nắm bắt bản chất của biến đổi lịch sử. Cho nên, Chiến lược
phát triển kinh tê-xã hội của Đảng ta vạch ra, cần được thường xuyên xem xét,
bổ sung cho phù hopwj thực tế trên thế giới và trong nước, không nên cứ giữ
nguyên cái bất biến trong nghị quyết để áp vào cái biến động thưởng nhật. Người
lãnh đạo phải biết sự ra đời và vận hóa của các quy luật, nếu không, như trong
3 bài học quy luật mà cố Chủ tịch nước Trường Chinh đã đúc kết là “Làm trái quy luật, đi ngược lịch sử sẽ bị
bánh xe lịch sử nghiền nát”. Luận giải biện chứng của Các Mác là : “Quy luật có thể phát hiện được về sự biến
đổi là biện pháp chứng, với sự vận động tạm thời lặp đi lặp lại của tiền đề, phản đề và hợp đề.
Biến đổi lịch sử không phải là ngẫu nhiên mà tuân theo một quy luật có thể phát
hiện được. Điều giữ cho quy luật đó hoạt động không ngừng là sự phóng thể,
chính nó bảo đảm rằng mỗi tình trạng kế tiếp sau cùng sẽ chấm dứt bằng những
mâu thuẫn nội tại của nó”.
Suy cho cùng, “cuốn
theo chiều gió” là con người phải đi kịp tiến trình lịch sử nhân loại và ý
nguyện đa số cộng đồng xã hội, trên cơ sở không được tách rời thực tiễn và vận
dụng các quy luật cuộc sống để chủ động vận hóa cho phù hợp, với cái điểm đích
là chất lượng, hiệu quả cao nhất. Tiến trình đó vượt ngoài sự kiểm soát của con
người nhưng bị đẩy tới trước bằng chính những quy luật nội tại của nó và con
người bị cuốn theo nó. Bảo thủ là sức ỳ lớn. Sức ỳ càng lớn thì sự trì trệ,
chậm tiến càng rõ nét. Và đó cũng chính là nguy cơ dễ bị triệt tiêu, nhường chỗ
cho sự ra đời và phát triển của cái mới phù hợp, tuân thủ quy luật hơn. Đem mớ
lý luận cũ đem soi vào những biến đổi của thực trạng xã hội mà không tuân thủ
để đổi mới lý luận cho phù hợp, lại bắt thực tế phải theo đúng như lý luận đã lỗi
thời, đó là sai lầm lớn. Cho nên, thực tiễn chính là biết cách nắm đúng, nắm
nhanh, theo kịp tiến trình phát triển của xã hội. Ở đó, tiến trình được diễn tả
như thế sẽ tiếp tục cho đến khi đạt tới một hoàn cảnh mà trong đó tất cả những
mâu thuẫn nội tại phải được giải quyết nhanh. Lúc ấy sẽ đủ sức vượt lên lực ma
sát của sự khô cứng lý luận, sự ấu trĩ, bảo thủ, trì trệ, và do đó tự nó (thực tiễn) sẽ trở thành lực mạnh mẽ
thúc đẩy xã hội phát triển.
Đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản là sự chỉ ra
con đường duy nhất đúng của học thuyết Mác nửa cuối thế kỷ
19, khi chưa thực tế thành công của cách mạng vô sản. Nhưng khi cách
mạng vô sản thành công, giai cấp vô sản đã nắm quyền lực xã hội, thì cách vận
dụng và nhìn nhận quan điểm về đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản phải
khác, phải chuyển hẳn sang phương thức mới, nếu không sẽ chuyên chính với ngay
chính giai cấp mình, giai cấp đã giao quyền lãnh đạo cho mình, trở thành “nồi da nấu thịt”, dẫn tới vi phạm quyền
dân chủ ngày càng nặng nề, nghiêm trọng, đảng tự tách mình thành tầng lớp khác,
không còn tình giai cấp vô sản nữa.
Lãnh đạo, chủ trương cho đến biện pháp của đảng vì
động cơ toàn trị, độc quyền, vì muốn giữ chặt ‘song quyền’ (quyền lực, quyền
lợi) mà quay lại chuyên chính với người dân, thủ tiêu đấu tranh phê bình, tự
phê bình, bóp chẹt tự do ngôn luận, bắt dân phải chấp hành răm rắp những mệnh
lệnh khô cứng và sai lầm, thì vô hình trung nhà lãnh đạo tự mình sinh ra cái
bệnh nói không trung thực, nói không đi đôi với làm, nới một dằng làm một nẻo.
Muốn ‘không ai
đụng đến ta’ thì ta phải có uy, dùng công an, quân đội để chỉ biết nghe
lệnh đảng, riết rồi thành kiêu binh, thành thể chế ‘công an trị’, ai đi trái ý,
dù chỉ là cấp ủy viên, bí thư đảng ủy, chi bộ phường, xã đã có công an ‘dàn
xếp’ ngay!
Hậu quả để lại là dân cứ trách móc, than phiền, thậm
chí chửi thẳng đảng, nhà nước. Thế nên dẫn đến mất uy tín do người lãnh đạo đã
làm sai quan điểm, đường lối, đi ngược lại mục tiêu, quyền lợi giai cấp. Chính
quyền do dân dựng lên lại quay lại tranh giành quyền lợi với dân, đàn áp người
dân, là hoàn toàn mất bản chất cộng sản “của
dân, do dân, vì dân”.
Nước ta đã tốn biết bao máu xương tiến hành đấu tranh
giai cấp. Đừng để tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống là những cái mầm “tự diễn biến”
tai hại, hình thành một thứ giai cấp bóc lột mới ngay trong lòng của Đảng cộng
sản chân chính, ngày càng nặng tính đối kháng với giai cấp vô sản. Để rồi chính
giai cấp vô sản lại phải làm cuộc đấu tranh chống lại đặc quyền đặc lợi kéo dây
thành hệ thống để thực hiện công bằng xã hội. Tham nhũng, đặc quyền đặc lợi là
đi ngược lại với xu thé không ngừng phát triển tiến bộ, dân chủ, văn minh của
lpoài người. Theo PGs.Ts Lê Bỉnh: Đặc quyền, đặc lợi là sản phẩm tất yếu
của một chế độ xã hội độc đoán, chuyên quyền, không có dân chủ.
Cái tâm lý sợ làm sai nghị quyết, cũng như bắt phải
làm đúng theo nghị quyết, suy cho cùng là sự kìm hãm sáng tạo và
trái quy luật tự nhiên của quá trình nhận thức, tư tưởng. Có những vấn đề,
những nội dung khi đưa vào nghị quyết thấy cũng đúng, chấp nhận được, nhưng khi
cuộc sống thực tế đã khác xa nhiều, có những diễn biến không còn phú hợp, liệu
có kịp thời dám bổ sung, thay đổi nội dung và cách thức, lấy gia trị thực tiễn
làm trọng.
Quy trình ngược của sự ấn định, áp đặt là “Đưa nghị quyết vào cuộc sống”. Đúng ra
phải đưa cuộc sống vào nghị quyết, khi
thực hiện nghị quyết cũng soi rọi lai qua thực tế của cuộc sông.
Hậu quả do chất lượng lãnh đạo, quản lý, điều hành xã
hội ngay từ cấp vĩ mô quá kém có nguyên nhân cơ bản là xa thực tế, xa chính
nhân dân, xa rời giai cấp của mình - lực lượng cách mạng hùng hậu của Đảng. Các
Mác cũng đưa ra đánh giá: “Khi đạt tới
hoàn cảnh không xung đột, con người sẽ không bị cuốn theo những lực lượng nằm
ngoài sự kiểm soát của nó, mà lần đầu tiên nó sẽ làm chủ số phận của mình”.
Tại sao những yếu kém, những suy thoái, biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân hoàn
toàn xa lạ với bản chất cộng sản đã xuất hiện khá rõ nét trong Đảng cả gần thế
kỷ rồi, nay vẫn ngang nhiên tồn tại, thậm chí ngày càng nặng nề, nguy hại hơn?
Lãnh đạo mà không biết thương dân, không đi sâu, đi sát nắm bắt thực tế, ngại
đi cơ sở, chỉ nắm tình hình qua báo cáo, nặng về hành chính, quan liêu, giải
quyết cái gì cũng đầy chủ quan tùy tiện, không có hiệu quả thực tế, thậm chí
ủng hộ cho cái sai, làm mất lòng dân thì hoàn toàn không phải là người
cộng sản. Đừng để những yếu kém trong Đảng kéo dài, thành thứ bệnh nan y, như
chứng ung thư hết thuốc chữa.
Vậy, nhìn lại thực trạng Đảng ta hiện
nay, hơn 3,6 triệu Đảng viên, các nhà lãnh đạo từ địa phương đến
Trung ương, Bộ, ngành,… đã hòa nhập vào thực tế đời sống, như cấu thiết thân,
tâm tư nguyện vọng của người dân lao động được bao nhiêu? Các sai lầm, khuyết
điểm của Đảng ta đang phải chính đốn chỉ có trong thực tế mới chỉ ra được. Không
ai hiểu rõ, nắm chắc, luận giải, sáng tạo, có nguồn tổng lực tiền của, công sức
bằng nhân dân. Đừng nói đến thanh trừng, mà đây phải là sự mạnh dạn thanh lọc,
phải kiên quyết và nhanh chóng đưa ra khỏi Đảng những đảng viên đã thoái hóa, biến
chất, chỉ rập khuôn công thức, bảo thủ, giáo điều, lý luận suông, hô khẩu hiệu.
Cái bài quen đã xưa cũ và không mang tính Đảng là “đóng cửa bảo nhau”, “xử lý
nội bộ”, “trong tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, giúp nhau cùng tiến bộ”,
“đánh chuột sợ vỡ bình”…là trò ụ xọe, bao che cho nhau, cố thủ bè cánh,
nhóm lợi ích. Càng kỷ luật trong đảng kiểu như vậy càng thêm đã mất lòng dân.
Nói Nhà nước pháp quyền mà thực thi pháp luật không chính xác, không nghiêm
minh, sao cứ hô hào “xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN”.
Làm lãnh đạo mà chỉ có lý thuyết
suông, tay ôm kè kè nghị quyết, không lo cho dân, không gần dân, xa thực tế,
coi thường dân chủ, suốt nhiệm kỳ chỉ lo vun vén cá nhân, củng cố nhóm lợi ích,
kéo bè kết cánh, lo xây vững ‘lô cốt song quyền’ lo đấu đá tranh giành gh, thì
có xứng với danh xưng “đảng cầm quyền”
hay không?
BVB
------------
Cơ quan đảng nằm bên cạnh chính quyền! Ai lãnh đạo ai? ai phục vụ nhân dân? Hay dân chịu một cổ hai tròng? cơ quan nào ăn lương từ tiền thuế của dân đây? Tới đây cải cách giáo dực như thế này: Lên lớp có hai ông giáo, một ông ngồi nghĩ và lãnh đạo còn ông kia chỉ việc nói với học sinh!
Trả lờiXóaThằng đảng lãnh đạo và thằng chính quyền thực hiện.Nhưng hỡi ơi,thằng đảng là thằng dốt nhất-ngu ngơ nhất-vô tích sự nhất.Đảng chỉ biết nói mà nói láo là chính,nói lấy được.Tuyên bố sau chửi cha tuyên bố trước nó cũng làm.Ai chửi nó,nó nín khe,tai lơ mắt điếc,miễn là được việc.
XóaCòn thằng chính quyền cũng dốt nát,đảng bảo gì nó làm nấy,bất kể đúng sai.Nó làm sai rồi dân chửi-huề tiền.
Tội của thằng chính quyền,không thể kể xiết nhưng nó là thằng Thiên lôi có thể lượng thứ phấn nào đó.Tội chính vẫn là thằng đảng.Vậy,hậu cs,phải lôi đầu mấy thắng con gọi là lãnh đạo đảng ra trước dân,để dân hạch tội,sao đó đái trên đấu chúng,để muôn đời nhà sản thành những con giòi,mãi mãi không thành người,trầm luân trong bể phót.
Chính quyền cũng là đảng. Không phải cáp uỷ, đảng viên đừng hòng có chức danh gì gọi là "vai vế" trong chính quyền. Vậy đảng mới lãnh đạo, bao trùm "trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện"!
XóaĐảng luôn kêu gọi với mọi người rằng: Phải cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Rồi thì quét sạch chủ nghĩa cá nhân... Vậy mà chính đảng ta thì lại tự cho mình: "đảng cộng sản quang vinh muôn năm", rằng ta là thiên tài, đỉnh cao trí tuệ... Khẩu hiệu băng rôn sẳn tiền thuế của dân đem treo đầy đường và nhà công sở. Vậy đây có phải cái gọi là phép biện chứng của kiểu tuyên truyền CNCS???
Trả lờiXóaTheo nghành Tâm lý học thì đây là chứng ' tự ty mặc cảm' nên sanh ra biến chứng ' thùng rổng kêu to'.
Xóa"đảng tự tách mình thành tầng lớp khác, không còn tình giai cấp vô sản nữa." Một nhận xét chính xác!
Trả lờiXóaTuy nhiên, Đảng cũng đã tự đổi mới lý luận rồi. Nếu bây giờ vẫn áp dụng phương châm của Trần Phú "Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc trốc tận rễ" thì toàn bộ đảng viên phải đem bắn hết, đảng ta sẽ không còn một đứa nào!
Khi cần giành chính quyền thì người ta lợi dụng nhân dân, khi nắm được chính quyền thì lại coi dân như cỏ rác. Thời nào, bọn nào cũng vậy mà thôi! Nhìn quan lại ngày nay ta thấy tởm. Không thể kính trọng đươc!
"Do đó, sức sống của chủ nghĩa Mác là trường tồn và kim chỉ nam cho mọi thời đại. Khi coi lý luận chủ nghĩa Mác là hệ thống liên tục mở, không chỉ bó hẹp trong các câu chữ một thời"
Trả lờiXóaRất chính xác . Nếu câu chữ ngày xưa đã sai thì dùng câu mới thay vào .
Không biết bác Bồng có biết đến cái gọi là nghịch lý con tàu của Theseus? Nó như thế này . Có 1 con tàu, những gì cũ kỹ ta thay bằng bộ phận mới . Cứ thay riết rồi với tất cả những bộ phận đã thay ra, ta có thể ráp thành 1 con tàu nữa . Kết quả là ta có 2 con tàu . Đố bác Bồng con tàu nào mới đúng là của Mác .
4 câu cuối trong bài viết của bác Đại tá quá hay.
Trả lờiXóaKhông ở trong đầu, cũng không ở trong tim, cũng không ở thực tiễn hay sách vở... Mọi thứ ở dưới đít, ở cái ghế chứ ở đâu bác Bồng !
Trả lờiXóaThực ra thì toàn bộ CSVN có ai được đọc sách nguyên bản của chủ nghĩa Mác đâu, chỉ có sách dịch từ tiếng Nga mà thôi, mà cũng chả ai đọc nên nói là theo chủ nghĩa Mác mà có thằng chó CS nào biết về Mác như bác Bồng viết trong bài nảy đâu.
Trả lờiXóaCâu biện chứng hay nhất của Mác là: "thực tiễn là thước đo chân lý". Nếu đưa câu này vào để xem xét tình hình thực tiễn về kinh tế xã hội ở VN hiện nay thì có thể kết luận ở VN chẳng có một CNXH hay một thằng con nào là CS cả. tất cả chỉ là một bọn nửa phong kiến, nửa man rợ đang đè đầu cưỡi cổ VN bằng những thứ lý thuyết mà bản thân chúng không bao giờ đọc và không bao giờ hiểu cả!!! Ngay cả thằng đầu sỏ là Trọng Lú cũng chỉ hiểu lơ mơ về chủ nghĩa Mác mà thôi.
Chẳng cần biện chứng ,biến chiếc chi hết .Nói cho cho vuong ;Đảng CSVN càng ngày càng xem giai cấp công nhân và nhân dân lao động VN [ĐẶC BIỆT LÀ NHỮNG NGƯỜI YÊU NƯỚC ] LÀ KẺ THÙ CỦA ĐẢNG .Thì điều tất yếu xảy ra là:nhân dân sẽ đào mồ chôn Đảng CSVN không thương tiếc .Ngày tàn của đảng CSVN và các đảng CS khác đang từ từ đến gần từng giây,từng giây một .CÁC LỰC LƯỢNG VŨ TRANG ;QUÂN ĐỘI-CÔNG AN LÀ CON EM NHÂN DÂN HAY LÀ LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CỦA NHÂN DÂN CHỨ KHÔNG PHẢI CỦA ĐẢNG CSVN .CÒN ĐẢNG CSVN THÌ ĐẤT NƯỚC CÒN ĐÓI NGHEO-CÒN TỤT HẬU THÊ THẢM .HAY BẢO VỆ NHÂN DÂN -TIÊU DIỆT BÈ ĐẢNG CSVN BÁN NƯỚC ;HẠI DÂN ./
Trả lờiXóakhông chuyển hóa là hỏng bộ phận nào đó trong cơ thể rồi, tức là ăn vào mà không tiêu đấy nói thẳng ra là không ỉa được, thế thì nguy rồi, nên chuẩn bị hậu sự là vừa.
Trả lờiXóaĐó là nói và làm không như nhất trở thành lí thuyết xuông ! Nhất trí với tác giả .
Trả lờiXóaĐến giờ này nhìn tổng thể Đảng và chính quyền không còn là của Nhân Dân nữa rồi . Chính là hai lực lượng đối đầu với Nhân Dân nếu không sửa sai lầm vi phạm dân chủ , không thượng tôn Hiến pháp do dân xây dựng ,sài hiến pháp và luật lệ của ĐCSVN áp đặt thì chế độ và xã hội Đất Nước chỉ có tụt hậu mãi mãi ,riêng nhóm ĐCSVN ai cũng giàu sụ .
Trả lờiXóaTừ một lý thuyết tư bản luận các nhà lãnh đạo Cộng Sản hợp lại với nhau đi đến xây dựng tạo nên tôn giáo vô sản , tôn giáo cộng sản với kinh kệ Mác , đạo cộng sản và giáo đường Xã hội chủ nghĩa .
Trả lờiXóaMột đất nước có hơn chín chục triệu dân , đạo Đảng có 3 triệu 6 trăm nghìn tín đồ đảng viên và giáo đường XHCN được xây dựng từng địa phương từ cấp xã trở lên chẳng sót một địa phương nào trên đất nước . Nhưng thử hỏi có bao nhiêu chủ trì những giáo đường XHCN hiểu thấu kinh kệ Mác ! Bởi thế những kẻ tuyên giáo đảng đầu não trung ương thoải mái ra nghị quyết , thoải mái ra điều lệ để gọi là phù hợp với thời thế nhằm điều hành tôn giáo Đảng theo nghi thức của Lenin , nghi thức độc tài , mỵ dân , ngụy biện và phản động .
Đạo ĐẢNG là đạo phản động nhất trong các tôn giáo . Phản động vì nếu có một hành động nào tác động vào đảng dầu nhiều ít , đúng sai , không phù hợp với nghị quyết mà Đảng tuyên bố , tất cả đều phải bị triệt tiêu , phải bị tiêu diệt bằng phương cách đàn áp khủng bố .
Từ một lực lượng tín đồ mang danh Vệ Quốc nhỏ bé thiện giáo , lần hồi phát triển thành một quốc giáo yêu nước chống thực dân giành độc lập . Để rồi tóm trọn tài sản của dân chúng , tóm trọn tài nguyên đất nước , xây dựng thánh đường XHCN và tuyên bố Quốc giáo Cộng Sản muôn năm .
Đã có một thời kỳ trên ba mươi năm kể từ 1954 , tôn giáo Cộng Sản muốn tiêu diệt mọi tôn giáo khác nhưng thất bại . Song song với mục tiêu Quốc giáo độc quyền , tôn giáo cộng sản cũng muốn nắm luôn cả độc quyền kinh tế từ sản xuất đến tiêu thụ với chính sách ngăn sông cấm chợ , cấm cả người mua thúng bán bưng .
Không thể độc quyền tôn giáo , độc quyền kinh tế , Đảng phải lùi bước trá hình với hình thái dân chủ XHCN và kinh tế thị trường định hướng XHCN . Không thể tiêu diệt thì cộng sản vẫn là một Quốc giáo điều hành mọi tôn giáo khác , biến Bác Hồ thành một vị Giáo chủ đặt để tương đương với Phật , Chúa ...vv ! Những thánh đường XHCN nhà nước vẫn nắm quyền sinh sát điều hành kinh tế từ trung ương xuống tận mọi ngõ ngách địa phương .
Bác Bồng là người hiểu về kinh kệ Mác , hiểu về các vận động điều hành Lenin , hiểu về lời dạy của Bác Hồ . Nhưng bác Bồng quên mất một điều , khi một con người hay một tập thế từ nghèo đói trở nên giàu sang , từ bình dan bá tính trở nên quyền uy lãnh đạo mà không có luật pháp hướng dẫn và kiềm chế , tất cả sẽ hư , sẽ mất đạo đức , sẽ cường hào ác bá .
Bởi thế , đừng nói đến kinh kệ Mác đúng sai , đừng nói đến nguyên tắc điều hành Lenin giỏi dỡ , đừng nói đến đạo đức Bác Hồ cao đẹp . Mà hãy nói đến cái Quốc giáo Cộng Sản nó đẻ ra Hiến pháp , nó đẻ ra nhà nước XHCN , nó cắt đặt trụ trì các thánh đường quản lý quần chúng không đảng , không theo Cộng sản giáo . Chính Quốc giáo Cộng Sản bao trùm mọi quyền uy khiến nó biến thành Ma giáo . Một Ma giáo cộng sản lãnh đạo nửa Miền Bắc trước 11975 , lần hồi phát triển thông qua chiến tranh giành độc lập thống nhất , biến thành một Đại ma giáo Cộng sản thống trị toàn bộ đất nước .
Đã là một Đại ma giáo Cộng Sản thì kinh kệ Mác hay Đạo Đức Bác làm sao thấm nhuần cho được . Chẳng những không đem xếp xó lại còn bị các các vị giáo chủ Cộng sản và thuộc hạ lợi dụng vẽ bùa vẽ rắn làm mặt nạ để che dấu tội ác tham nhũng hối lộ , đàn áp dân lành .
Phải phá hủy , phải thiêu rụi hết những thánh đường lẫn kinh kệ Mác . Phải lôi cổ các ác tăng còn tại chức hay về vườn ra trước toà án nhân dân . Không thể để cái Đại ma giáo Cộng sản tồn tai bằng phương cách gọi là góp ý xây dựng , phải để cho nó tự hủy , tự diệt càng sớm càng tốt .
Với sức mạnh ma giáo phản động cộng sản , mọi góp ý với nó sẽ biến thành kẻ thù . Đừng hy vọng ở tình đồng chí khi họ đã biến thành ác quỷ cuồng bạo .
http://tiengsongbien-thohon.blogspot.com/2016/12/rut-kinh-nghiem.html
Trả lờiXóaComen 17:25 Ngày 17 tháng 12 năm 2016 nói rất trúng đích":Chính Quốc giáo Cộng Sản bao trùm mọi quyền uy khiến nó biến thành Ma giáo . Một Ma giáo cộng sản lãnh đạo nửa Miền Bắc trước 11975 , lần hồi phát triển thông qua chiến tranh giành độc lập thống nhất , biến thành một Đại ma giáo Cộng sản thống trị toàn bộ đất nước . Theo Luật Nhân - Quả, chế độ tà giáo VN ngày nay gây nhiều tội ác nhất định sẽ bị báo ứng. Nhân dân , Tổ quốc, Dân tộc là chính nghĩa và chính giáo, nhất định sẽ thắng phi nghĩa , tà giáo.
Trả lờiXóa