Trong đấu tranh với Trung Quốc để tránh bị mắc lừa,
chúng ta phải tự vũ trang cho mình khả năng và hiểu biết về luật pháp, thông lệ
quốc tế trước.
LTS: Trước thềm phán quyết của Tòa Trọng tài Thường
trực (PCA) ngày 12/7, Trung Quốc vẫn ra sức tuyên truyền ào ạt về cái gọi là
chủ quyền của họ trên Biển Đông với "bằng chứng lịch sử" và tiếp tục
bác bỏ thẩm quyền, phán quyết của Tòa.
Tiến
sĩ Trần Công Trục, chuyên gia về biên giới lãnh thổ và luật biển quốc tế gửi
đến Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam bài phân tích của ông về vấn đề này, xin trân
trọng giới thiệu đến quý bạn đọc bài viết này.
Ngày 1/7 kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản
Trung Quốc, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tập trung khá nhiều vào chính
sách đối ngoại, những vấn đề liên quan đến Biển Đông trong bài diễn văn đọc tại
lễ kỷ niệm này. Ông nhắc lại, Trung Quốc không thỏa hiệp về "chủ quyền
lãnh thổ, quyền và lợi ích trên biển".
Trợ
chiến cho ông, truyền thông nhà nước Trung Quốc ồ ạt đăng tải các bài phỏng
vấn, những thông tin, những bằng chứng lịch sử để cố chứng minh cho cái gọi là
"chủ quyền không tranh cãi" của Trung Quốc với các đảo ở Biển Đông,
thậm chí là toàn bộ Biển Đông.
Đây là một mũi tên truyền thông nguy hiểm nhằm vào hai
đích, một là tiếp tục đánh lạc hướng dư luận quốc tế về bản chất vụ kiện của Philippines và
phán quyết của PCA hòng lôi kéo sự ủng hộ của dư luận. Hai là sẵn dịp này đẩy
mạnh tuyên truyền cái gọi là "chủ quyền lịch sử" của Trung Quốc đối
với đường lưỡi bò, cũng như 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.
Trước những thủ đoạn tuyên truyền này của Trung Quốc,
chúng ta với tư cách là bên liên quan trực tiếp có chủ quyền với 2 quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa bị Trung Quốc xâm phạm, có vùng đặc quyền kinh tế, thềm
lục địa hợp pháp bị Trung Quốc xâm hại cần phản ứng ra sao để tránh rơi vào bẫy
Trung Quốc thiết nghĩ là điều hết sức quan trọng.
Trung Quốc đánh đồng các tranh chấp, chúng ta càng
phải phân biệt rạch ròi các tranh chấp
Đến giờ này khi PCA sắp ra phán quyết, Trung Quốc vẫn
tiếp tục thủ đoạn "ông nói gà, bà nói vịt", đã trót phóng lao thì
phải theo lao. Tuy nhiên Bắc Kinh đang vấp phải phản ứng quyết liệt từ chính dư
luận các học giả, nhà nghiên cứu chân chính trong nước, cũng như dư luận khu
vực và các nước liên quan.
Điển hình như việc Ngoại trưởng Indonesia mới đây
tuyên bố dõng dạc, Indonesia không có bất kỳ cái gọi là "vùng chồng
lấn" nào với Trung Quốc ở Biển Đông khu vực phía Bắc quần đảo Natuna. Mặt
khác, Jakarta
không thừa nhận đường lưỡi bò, cũng không thừa nhận cái gọi là "vùng đánh
cá truyền thống" mà Trung Quốc đưa ra.
Không dừng lại ở lời nói, chính phủ Tổng thống Joko
Widodo đã triển khai một loạt chính sách, hành động bảo vệ vùng đặc quyền kinh
tế, thềm lục địa của họ, điều mà chúng ta đã làm trong khủng hoảng giàn khoan
981 năm 2014 do Trung Quốc gây ra và nhiều lần khác Trung Quốc xâm phạm.
Về mặt pháp lý, vụ kiện của Philippines và phán quyết
của PCA sắp có ngày 12/7 tới đây nếu Tòa tuyên đường lưỡi bò Trung Quốc không
có căn cứ pháp lý sẽ là một đòn bẩy quan trọng để các bên liên quan tiếp tục
đấu tranh với Trung Quốc chống lại các hành vi leo thang, bành trướng, vi phạm
luật pháp quốc tế và xâm phạm quyền lợi của các nước liên quan.
Trên Biển Đông có nhiều tranh chấp phức tạp, đan xen
nhau, trong đó nổi bật hơn cả là tranh chấp chủ quyền / lãnh thổ đối với 2 quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa và tranh chấp ứng dụng, giải thích và vi phạm Công ước
Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982). Đường lưỡi bò Trung Quốc là
sản phẩm của việc giải thích và áp dụng sai ,vi phạm trắng trợn UNCLOS 1982.
Còn với các tranh chấp chủ quyền / lãnh thổ với các
đảo, các thực thể ở Hoàng Sa, Trường Sa cần được giải quyết bằng biện pháp hòa
bình thông qua hệ thống luật pháp và thực tiễn quốc tế về thụ đắc lãnh thổ mà
chúng tôi xin nhắc lại dưới đây.
UNCLOS
1982 và phán quyết của PCA tới đây không giải quyết tranh chấp lãnh thổ / chủ
quyền như Trung Quốc đang tuyên truyền. UNCLOS 1982 và DOC cũng không phải căn
cứ để đàm phán giải quyết tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông như cách hiểu của Nga
hiện nay.
Căn cứ pháp lý giải quyết tranh chấp chủ quyền / lãnh
thổ ở Biển Đông
Trong
lịch sử phát triển lâu dài của pháp luật quốc tế, những nguyên tắc và quy phạm
pháp luật xác lập chủ quyền lãnh thổ đã được hình thành trên cơ sở thực tiễn
quốc tế, trong đó có các phương thức thụ đắc lãnh thổ.
Từ thế kỷ XVI, tình trạng tranh chấp về khu vực ảnh
hưởng giữa các nước mới phát triển và lớn mạnh như Hà Lan, Anh, Pháp... với các
nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trở nên quyết liệt.
Bởi vậy nên Giáo hoàng Alexandre VI đã ký Sắc lệnh
ngày 04/5/1493 phân chia khu vực ảnh hưởng cho Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ở phạm
vi nằm ngoài châu Âu.
Trước
thực trạng đó, các cường quốc hàng hải đã tìm ra nguyên tắc pháp lý áp dụng cho
việc thụ đắc lãnh thổ đối với những vùng lãnh thổ mà họ mới phát hiện. Đó là
nguyên tắc "quyền ưu tiên chiếm hữu ", hay còn được gọi là nguyên tắc
"quyền phát hiện ".
Nguyên
tắc này dành quyền ưu tiên chiếm hữu một vùng lãnh thổ cho quốc gia nào đã phát
hiện vùng lãnh thổ đó đầu tiên. Tuy nhiên, trên thực tế nguyên tắc "quyền
phát hiện" chưa bao giờ tự nó đem lại chủ quyền quốc gia cho quốc gia đã
phát hiện ra vùng lãnh thổ mới đó.
Bởi vì, người ta không thể xác định được thế nào là
phát hiện? Giá trị pháp lý của việc phát hiện? Ai là người phát hiện trước? Lấy
gì để ghi dấu hành vi phát hiện đó?...
Vì
thế, việc phát hiện đã nhanh chóng được bổ sung bằng việc chiếm hữu trên danh
nghĩa, nghĩa là quốc gia phát hiện ra một vùng lãnh thổ phải để lại dấu tích
trên vùng lãnh thổ mới phát hiện ra đó.
Mặc dù vậy, nguyên tắc "chiếm hữu danh
nghĩa" không những không thể giải quyết được một cách cơ bản những tranh
chấp phức tạp giữa các cường quốc đối với các vùng "đất hứa", đặc
biệt là những vùng lãnh thổ thuộc châu Phi và các hải đảo nằm cách xa đất liền
hàng ngàn, hàng vạn hải lý.
Chẳng những thế, nguyên tắc này còn ngày càng dẫn đến
những đối đầu quyết liệt hơn giữa các cường quốc vì người ta không thể lý giải
được cụ thể cái "danh nghĩa" đã được lập ra bao giờ và tồn tại như
thế nào.
Vì vậy, sau Hội nghị về châu Phi năm 1885 của 13 nước
châu Âu và Hoa Kỳ và sau khóa họp của Viện Pháp luật quốc tế ở Lausanne (Thụy
Sĩ) năm 1888, người ta đã thống nhất áp dụng một nguyên tắc thụ đắc mới. Đó là
nguyên tắc "chiếm hữu thật sự".
Điều 3, Điều 34 và Điều 35 của Định ước Berlin ký ngày 26/6/1885
đã xác định nội dung của nguyên tắc chiếm hữu thật sự và các điều kiện chủ yếu
để có việc chiếm hữu thật sự như sau:
-
"Phải có thông báo về việc chiếm hữu cho các quốc gia ký Định ước nói
trên";
-
"Phải duy trì trên vùng lãnh thổ mà nước đã thực hiện hành vi chiếm hữu
trên vùng lãnh thổ ấy một quyền lực đủ để khiến cho các quyền của nước chiếm
hữu được tôn trọng... ".
Tuyên bố của Viện Pháp luật quốc tế Lausanne năm 1888 đã nhấn mạnh:
"...mọi sự chiếm hữu muốn tạo nên danh nghĩa chủ quyền... thì phải là thật
sự, tức là thực tế, không phải là danh nghĩa".
Chính Tuyên bố này đã khiến cho nguyên tắc chiếm hữu
thực sự của Định ước Berlin
có giá trị phổ biến trong luật pháp quốc tế để xem xét giải quyết các tranh
chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia trên thế giới.
Nội dung chủ yếu của nguyên tắc chiếm hữu thật sự
trong luật pháp quốc tế bao gồm:
1.
Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do nhà nước tiến hành;
2.
Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hòa bình trên một vùng lãnh thổ vô
chủ (res nullius) hoặc là trên một vùng lãnh thổ đã bị từ bỏ bởi một quốc gia
đã làm chủ nó trước đó (derelicto). Việc sử dụng vũ lực để xâm chiếm là hành
động phi pháp;
3.
Quốc gia chiếm hữu phải thực thi chủ quyền của mình ở những mức độ cần thiết,
tối thiểu thích hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó;
4.
Việc thực thi chủ quyền phải liên tục, hòa bình.
Do tính hợp lý và chặt chẽ của nguyên tắc này nên mặc
dù Công ước Saint Germain ngày 10/8/1919 đã hủy bỏ Định ước Berlin 1885 vì lý
do thế giới không còn lãnh thổ vô chủ nữa, các luật gia và các cơ quan tài phán
quốc tế vẫn vận dụng nguyên tắc này để giải quyết các tranh chấp chủ quyền trên
các hải đảo.
Chẳng hạn, Tòa Trọng tài Thường trực vào tháng 04/1928
đã vận dụng nguyên tắc này để xử vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan hay
phán quyết của Tòa án Quốc tế vì Công lý (ICJ) của Liên Hợp Quốc tháng 11/1953
đối với vụ tranh chấp chủ quyền giữa Anh và Pháp về các đảo Minquiers và
Ecrchous...
Gần đây hơn, ICJ đã ra phán quyết Malaysia thắng trong
vụ kiện với Indonesia vào tháng 12/2002 về chủ quyền đối với Pulau Ligitan và
Pulau Sipadan vì Tòa nhận thấy rằng, Malaysia đã thực hiện một cách thường
xuyên một loạt các hoạt động của nhà nước.
Căn
cứ vào nguyên tắc pháp lý nói trên, đối chiếu với quá trình xác lập và thực thi
chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do các bên tranh chấp nêu ra,
chúng ta chắc chắn sẽ có được những nhận xét khách quan và khoa học về quyền
"thụ đắc lãnh thổ " đối với hai quần đảo này.
Cái bẫy nguy hiểm mang tên "bằng chứng lịch
sử" Trung Quốc đang giăng ra, không cảnh giác chúng ta dễ mắc
Mỗi khi phía Trung Quốc tung ra các tài liệu lịch sử,
bằng chứng lịch sử như thư tịch, bản đồ như cái gọi là "cuốn sách 600 tuổi
về chủ quyền Trung Quốc với Hoàng Sa, Trường Sa" mà truyền thông vừa nêu
trong thời gian qua, xu hướng chung của dư luận phản bác lại Trung Quốc mới chỉ
dừng lại ở bản thân tài liệu đó như nội dung, tính xác thực...mà quên mất một
điểm tối quan trọng.
Đó là trước hết phải xác định được bản chất tranh
chấp, đối tượng tranh chấp và khung pháp lý, hoặc nói nôm na là hệ quy chiếu
giải quyết vấn đề tranh chấp đó trước, sau đó mới đến bản thân các tài liệu.
Bản đồ, thư tịch về chủ quyền lãnh thổ có rất nhiều,
nhưng nó chỉ có giá trị trong đấu tranh pháp lý khi do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành cùng các quyết định hành chính thể hiện ý chí nhà nước trong
việc xác lập, tuyên bố và thực thi chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ phù hợp
với luật pháp quốc tế.
Không phải bản đồ nào, thư tịch nào cũng có giá trị
khẳng định chủ quyền của một nhà nước đối với vùng lãnh thổ. Nếu chúng ta không
xác định trước một "hệ quy chiếu" pháp lý chuẩn mực về tranh chấp
lãnh thổ, mà lập tức nhảy vào phản bác, tranh cãi với Trung Quốc trên các
"bằng chứng lịch sử" cụ thể họ đưa ra, chúng ta sẽ mắc bẫy.
Bởi lẽ việc đầu tiên là phải sàng lọc trong số những
"bằng chứng" mà Trung Quốc đưa ra, cái nào có giá trị pháp lý để
chứng minh cho yêu sách của họ, cái nào phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc
tế về thụ đắc lãnh thổ. Việc thứ hai mới là xem xét nội dung của các bằng chứng
lịch sử là thư tịch, bản đồ.
Nhận xét, đánh giá về những “bằng chứng” mà
Trung Quốc đã và đang khai thác để bảo vệ cho những yêu sách phi lý của
họ, Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính
trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân
chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận:
"Người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển
Đông có nhiều đảo mọc rải rác, nhưng điều đó không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo
vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khám phá, khai
thác và quản lý hai quần đảo này”.
Nhận xét này không phải chỉ từ các học giả quốc tế mà
ngay cả những học giả Trung Quốc cũng đã có những nhận xét chuẩn xác và khách
quan trước tình hình Trung Quốc đã và đang tìm mọi cách sưu tầm, viện dẫn
nghiều sách, tài liệu địa lý, lịch sử để chứng minh và bảo vệ cho quan điểm
pháp lý về quá trình xác lập và thực thi cái gọi là “chủ quyền lịch sử” của
Trung Quốc đối với “Tây Sa” và “Nam Sa”: “Nhưng chứng cứ đó có ý nghĩa ngày
càng nhỏ trong luật quốc tế hiện đại…, chứng cứ thật sự có sức thuyết phục
chính là sự kiểm soát thực sự. Anh nói chỗ đó của anh, vậy anh đã từng quản lý
nó chưa, người ở đó có phục tùng sự quản lý của anh không, có phải người khác
không có ý kiến gì không? Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là “có” thì anh
thắng là điều chắc. Ở Nam Sa, chúng ta không có được điều đó.” Giáo sư Lý Lệnh
Hoa, Nghiên cứu viên Trung tâm Thông tin Hải dương Trung Quốc, người viết nhiều
bài phê phán những quan điểm sai trái của Trung Quốc về vấn đề Biển Đông, đăng
trên mạng xã hội Weibo và diễn đàn mạng Sina. Chính trong quá trình đàm phán
hoạch định biên giới trên bộ và vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam với Trung
Quốc, chúng ta đã tiến hành theo nguyên tắc, trình tự này nên tránh được không
ít rắc rối do "mê hồn trận" bằng chứng lịch sử mà Trung Quốc giăng ra.
Ngoài ra còn chưa kể đến những tài liệu lịch sử, ngoại giao không có giá trị
pháp lý vẫn đang được Trung Quốc sử dụng để tuyên truyền gây bất lợi cho ta,
như tài liệu Trung Quốc nộp lên Liên Hợp Quốc năm 2009.
Nếu cứ lập luận dựa vào "bằng chứng lịch sử"
mà thiếu một hệ quy chiếu pháp lý quốc tế như cách Trung Quốc đang làm hiện
nay, Việt Nam chúng ta có thể căn cứ vào Đại Việt sử ký toàn thư cũng có thể
đòi chủ quyền lãnh thổ đến tận phía Nam sông Dương Tử! Như vậy thế giới này
loạn mất.
Tóm lại, trước các thủ đoạn tuyên truyền dựa
vào tài liệu lịch sử, địa lý, khảo cổ mà Trung Quốc đưa ra về Biển
Đông, chúng ta cần tiếp cận một cách thận trọng, nghiên cứu và phản biện trên
tinh thần luật pháp quốc tế mà theo tôi gồm có 3 bước:
Một là xác định vấn đề và khoanh vùng phạm vi tranh
chấp, đối tượng tranh chấp, thời gian nảy sinh tranh chấp: Nếu là tài liệu về
đường lưỡi bò, hoặc đòi "chủ quyền đối với toàn bộ Biển Đông" thì
việc đầu tiên là phải xác định, đây là vấn đề giải thích, áp dụng UNCLOS 1982
về các vùng biển chứ không phải tranh chấp chủ quyền / lãnh thổ như đối với các
thực thể ở Hoàng Sa hay Trường Sa.
Hai là xác định hệ quy chiếu pháp lý, căn cứ pháp lý
quốc tế để xác định tài liệu đó, "bằng chứng lịch sử" đó có giá trị
đàm phán hoặc tranh tụng trước tòa hay không.
Thông thường những thư tịch không mang tính nhà nước,
tác phẩm văn học, gia phả, ghi chép cá nhân, sử sách thuần túy chỉ mang tính
chất tham khảo nghiên cứu. Những thư tịch mang tính chất văn bản nhà nước thể
hiện ý chí nhà nước trong việc xác lập, tuyên bố và thực thi chủ quyền mới có
giá trị đấu tranh.
Giống như khi đàm phán phân định biên giới trên bộ
giữa Việt Nam và Trung Quốc, thì Công ước Pháp - Thanh 1887 và Công ước Pháp -
Thanh 1895 làm căn cứ hoạch định đàm phán, thì mọi bằng chứng lịch sử chỉ có
giá trị khi nó phù hợp với nội dung Công ước này. Ngoài ra các tài liệu khác
không có giá trị pháp lý mà chỉ để tham khảo.
Bước thứ 3 mới bắt đầu đi vào xem xét các bằng chứng
lịch sử có giá trị pháp lý theo nguyên tắc pháp lý các bên đã thỏa thuận, theo
luật pháp và thông lệ quốc tế để tìm hiểu chúng có giá trị đến đâu.
Như vậy, trong đấu tranh với Trung Quốc để tránh bị
mắc lừa, chúng ta phải tự vũ trang cho mình khả năng và hiểu biết về luật pháp,
thông lệ quốc tế trước, sau đó mới triển khai các vấn đề tiếp theo về tài liệu,
bằng chứng.
Nếu không, chúng ta bỏ cả đống tiền tìm mua bản đồ,
tài liệu về trưng bày, triển lãm...rồi cuối cùng “tiền mất, tật mang”,
thậm chí là đã vô tình “ủng hộ” cho quan điểm “chủ quyền lịch sử”
mà hiện nay đang bị những thế lực theo chủ nghĩa dân tộc cực
đoan, hẹp hòi lợi dụng để phục vụ cho tham vọng chính trị của họ…
Ts Trần Công Trục/Giáoduc.net
----------
Trả lờiXóaCả tỉnh Nghệ An hơn 3 triệu dân chỉ có 75 sĩ tử Tú tài ghi môn Sử !!!
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2012/08/T%E1%BB%AB-b%C6%A1m-v%C3%BA-b%C6%A1m-m%C3%B4ng-%C4%91%E1%BA%BFn-t%E1%BB%B1-b%C6%A1m-m%C3%ACnh.jpg
Trần DâM Tiên bóp méo Việt Sử :
Nên Dân xứ Nghệ chán Tổ sư !
Nghệ An dân số hơn ba triệu
Thí sinh Tú tài chán Sử .. sinh thư !
Cả tỉnh Nghệ An chỉ có 75 sĩ tử
Bác và Đảng nặn Sử như củ khoai từ
Không khéo Bác Hồ là Bác Mao béo
''Sông Lam biết khi mô cho cạn '' Cáo Hồ ? ? ?
TRIỆU LƯƠNG DÂN
Dân số Nghệ An năm 2014 có 3,037,400 dân
Cả tỉnh Nghệ An chỉ có 75 thí sinh đăng ký thi môn Lịch sử
https://www.youtube.com/watch?v=n-EvCW2IVmw
Các Cu NGHỆ bây giờ thuộc ĐƯỜNG MINH HOÀNG - DƯƠNG QUSY PHI còn hơn Quang Trung - Ngọc Hân Công chúa ...Cảm ơn BÁC HÙ ....
(GDVN) - Thí sinh không chọn Lịch sử là môn thi không hoàn toàn có nghĩa là các em chán Sử mà đó là sự lựa chọn rất thực dụng, thực tế.
Quá ít thí sinh chọn môn Sử
Chiều 3/7, theo báo cáo của Sở GD&ĐT Nghệ An, kỳ thi THPT Quốc gia 2016 ở Cụm thi 26 do Sở GD&ĐT tổ chức có 19/26 trường THPT không có thí sinh đăng ký dự thi môn Lịch Sử .Tại Cụm thi 26 này, số thí sinh đăng ký môn Lịch Sử chỉ có 75 em.
Cả tỉnh Nghệ An chỉ có 75 thí sinh đăng ký thi xét tốt nghiệp môn Lịch sử
Bất luận phán quyết của Tòa xử Philippine thắng kiện, TQ cũng vẫn không từ bỏ viếc tiến chiếm biển Đông. Nhưng đó là căn cứ pháp lý đặc biệt quan trọng để Phi đòi lại, thậm chí bằng cả biện pháp quân sự dưới sự giúp sức của Mỹ, Nhật. Còn Việt Nam, chúng ta cứ nha nhả nói chủ quyền không thể chối cãi, nhưng nó vẫn cãi chày cãi cối và vẫn cứ chiếm, ta chẳng làm gì ngoài cái mồn. Sao không kiện như Phi? VN có thừa căn cứ hơn Phi để kiện kia mà!
Trả lờiXóaThằng Nga, Lào, Miên cũng quay lưng lại để ủng hộ Tàu. Như thế là quan hệ "truyền thống" giữa Nga và Việt sẽ chẳng còn gì để nói. Mối tình đặc biệt Việt Lào cũng đã bị đồng nhân dân tệ làm giảm độ "đặc" rồi. Còn cái thằng ta lôi nó lên từ vũng máu, thoát khỏi bàn tay Pôn Pốt thì rõ là thằng hai mặt. Ôi, cộng sản và nguyên cộng sản đang hùa nhau ép việt cộng vào cuối đường hầm.
Không liên minh với Mỹ, VN sẽ đi về đâu?
Gấp lắm rồi. 2 chiếc máy bay rơi cũng đủ cho ta thấy được dã tâm TQ. Nguyên thủ VN cần đi thăm Mỹ gấp để kí hiệp ước an ninh, cứu dân tộc này khỏi vòng hán hóa. Đừng nghĩ đến cái "đại cục" viển vông. DDaji cục của Việt Nam là phải liên minh với Mỹ để giữ nước, không cho TQ làm mưa làm gió ở Biển Đông.
Thế thì bất kỳ nước Châu Phi nào cũng có quyền đòi đất cả thế giới này, vì khoa học chứng minh rằng nhân loại phát triển từ người Châu Phi. he he
Trả lờiXóa