Trang BVB1

Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2016

THẾ SỰ DU DU

* Gs. TƯƠNG LAI
Năm 2015 trôi qua để lại biết bao xáo động trong thế sự và trong tâm trạng mỗi người. Tuỳ theo chỗ đứng khác nhau mà cảm nhận và suy tư về sự xáo động ấy. Mỗi cách nghĩ đều có cái lý của riêng mình và đương nhiên, phải chịu trách nhiệm bởi chính mình. Chẳng hiểu tại sao giữa cái mênh mông thế sự đó, trong tôi thoáng gợi lên niềm cảm khái về câu thơ của Đặng Dung “thế sự du du nại lão hà [việc đời dằng dặc mà ta đã già, biết làm thế nào].
Đúng là ở tuổi 80, cách nghĩ có bớt đi sự nông nỗi nhưng “nại lão hà” thì không đến trong tôi khi tôi nghĩ để viết. Có chăng là càng bị giục giã quyết liệt hơn khi viết bởi ý tưởng  “những ai chần chừ, tin rằng tương lai sẽ là sự tiếp tục của quá khứ, sẽ sớm thấy mình bị hụt hẫng trước sự thay đổi. Họ sẽ bị buộc phải suy nghĩ lại : sẽ đi đến đâu và bằng cách nào đi đến đó, khi mà có lẽ đã quá muộn để tránh được điều không thể tránh khỏi".
Dễ chừng đã hơn hai thập kỷ, ý tưởng ấy và ý tưởng của Nobert Wiener, cha đẻ của ngành điều khiển học : “chúng ta đang làm biến đổi môi trường của ta tận gốc rễ để rồi ta phải biến đổi chính mình mới tồn tại được trong môi trường ấy” đọng lại trong óc tôi, chi phối cách suy nghĩ của mình. Nhìn lại những gì đã xảy ra năm 2015 và những tin tức tràn ngập trên mạng trong buổi giao thoa giữa năm cũ và năm mới lại càng thấm thía những lời đúc kết có ý nghĩa cảnh báo ấy. Thế nhưng quả là không dễ gì ngay một lúc đã thấy ra đủ chiều sâu và sức nặng của một dự báo khoa học, một cách nhìn mang tầm vóc thời đại.
Thì chẳng thế sao khi nhớ lại từng có một thời, do ngập chìm trong lo toan về đánh giặc cứu nước, đã có người không đủ sức để thấy, để hiểu nên đã mỉa mai những cảnh báo khoa học về hiểm hoạ của môi trường bị tàn phá rồi sẽ còn khủng khiếp hơn cả chiến tranh. Giờ đây, khi hàng ngày hàng giờ chịu tác động trực tiếp của hiểm hoạ đó ngay trên đất nước mình, một trong những vùng bị tác động ghê gớm nhất, liệu đã là “đã quá muộn để tránh được điều không thể tránh khỏi ” mà khoa học thế giới cảnh báo chưa?
Thì ra sự thiển cận, lại là thiển cận ở cấp quốc gia thì hệ luỵ của nó khó mà lường hết được. Ảnh hưởng trực tiếp của hiểm hoạ môi trường tự nhiên có thể đo đếm được thì dễ thấy. Chẳng hạn như Hội An, một địa danh du lịch vào loại đặc biệt nhất của Việt Nam có đường bờ biển dài khoảng 7.6km, nhưng đã mất gần 200m do sạt lở trong vòng 10 năm trở lại đây. Từ tháng 10.2014, bờ biển lại tiếp tục bị lấn sâu khoảng 30m. Đợt gió mùa đông bắc cuối tháng 11năm 2015 vừa qua còn xói lở nghiêm trọng hơn với 250m chiều dài bờ biển và ăn sâu 10m vào đất liền. Nhưng đo đếm về môi trường xã hội của Hội An, một trong những nhân tố khá quyết định thu hút khách du lịch thì chắc khó hơn nhiều.
Nói điều này để lưu ý rằng, hiểu ra được cái môi trường xã hội mà chúng ta đang ngập chìm trong đó là hết sức khó. Khó vì môi trường ấy đã nhào nặn ra tập quán và thói quen cho cả một xã hội có sức trì kéo khủng khiếp đối với sự ra đời của cái mới, của tiến bộ và phát triển.
Điều này thì thế giới người ta nói lâu rồi. Tính chuyên chế của tập quán ở mọi nơi là chướng ngại thường trực cản trở con người tiến lên phía trước, luôn không ngừng đối kháng với xu thế hướng tới cái gì đó tốt đẹp hơn thói thường, cái xu thế mà tùy theo tình hình vẫn được gọi là tinh thần tự do”. Đây là lời cảnh báo của tác giả cuốn sách “Bàn về tự do” John Stuart Mill ra đời cách nay đã 150 năm [1859]. Năm 1868 người Nhật đã dịch và phát hành 2 triệu bản, góp rất lớn vào công cuộc canh tân nước Nhật.
Ở ta thì mãi năm 2006, NXB Tri thức của Chu Hảo mới cho dịch và in 1000 bản, vừa phát hành vừa thăm dò ý kiến các “đồng chí lãnh đạo”, những người đang cai quản đầu óc của cả  nước xem có bị chệch hướng không! Chẳng trách mà thế lực giáo điều bảo thủ cho dù chỉ còn thoi thóp và đã bốc mùi lên rồi nhưng vẫn còn có đất dụng võ, xưng hùng xưng bá, múa gậy vườn hoang. Mọi cao đàm khoát luận, lâm ly thống thiết trong diễn văn diễn võ, hay mùi mẫn tỉ tê những lời thăm hỏi mị dân ẩn bên trong ngón đòn chĩa vào đối thủ… đều được trình diễn trên cái nền của sự ngu dân bằng bưng bít thông tin, bóp méo sự thật, áp đặt tư tưởng.
Sự đầu độc môi trường xã hội không dễ đo đếm như cách tính ra bao nhiêu thước đất bị sạt lở, mấy phần trăm cây số bờ biển ngập trong nước biển dâng, nhưng hệ luỵ của chúng thì khủng khiếp không kém. Cái kết cấu hạ tầng tâm lý xã hội cho dù bị xáo động dữ dội song không dễ gì chuyển đổi một sớm một chiều. Sức trì kéo của “đất lề, quê thói” trói chặt với nguyên lý “nối tiếp, làm theo, không thay đổi” [kế, thuật, vô cải] của Nho gia là một thứ xiềng xích về tư tưởng, không cho nó bung ra khỏi những tập quán quen thuộc đã định hình từ bao đời. Cái “đã định hình” ấy khước từ mọi sự canh tân. Nó củng cố tính bảo thủ được khoác cho những tấm áo đủ mọi màu sắc.
Chính đấy là mảnh đất nuôi dưỡng sự trì trệ, được thăng hoa bằng chủ nghĩa giáo điều Mao ít đang ngự trị được đeo cái mặt nạ “ý thức hệ XHCN”. Thế nhưng, thật là mỉa mai mà nhắc lại cội nguồn của cái “ý thức hệ” ấy: “ngày 27 tháng 11 năm 1925, tờ New York Times, có một tin ngắn, loan báo vừa có một đảng, mang tên là “Đảng Công nhân quốc gia xã hội chủ nghĩa” ra đời tại Đức, quen gọi tắt là “Đảng Quốc xã”. Người sáng lập và lãnh đạo Đảng Quốc xã là Adolf Hitler”. Còn Vladimir Bukovsky, một nhà văn Xô Viết thì lưu ý:  “Mọi người quên rằng chế độ Đức Quốc Xã ở Đức cũng là một chế độ xã hội chủ nghĩa. Nó chính thức được gọi là Đảng Công nhân Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa. Nó là một chi nhánh của chủ nghĩa xã hội. Liên Xô được gọi là xã hội chủ nghĩa quốc tế và Đức Quốc Xã được gọi là xã hội chủ nghĩa quốc gia”.
Sự thiển cận ở tầm quốc gia khi lựa chon mô hình phát triển đã đẩy dân tộc ta, đất nước ta vào sự tụt hậu đáng xấu hổ giữa các nước trong khu vực và thế giới văn minh. Đau đớn hơn nữa là sự thiển cận ấy đang ngoan cố không chịu thay đổi, đang dao động nghiêng ngả vì bị chi phối bởi quyền lực nhưng lại khoác cho mục tiêu bẩn thỉu đó cái nhãn ý thức hệ XHCN!
Người ta cố bịt mắt lại trước một thực tế phũ phàng thức tỉnh cả thế giới buộc người ta phải nhìn nhận bằng con mắt tỉnh ngộ như C.Mác từng viết chứ chẳng phải ai khác! Hệ thống XHCN đã sụp đổ tan tành như một lâu đài xây trên cát. Nó sụp đổ vì cái chân móng của nó đã rệu rã vô phương cứu chữa mà những đầu óc thức thời đã hiểu ra và nhân dân đã cảm nhận bằng sự trải nghiệm của chính họ. Mọi sự tuyên truyền bịp bợm với một bộ máy tuyên truyền còn khủng khiếp hơn của Goebbels được hỗ trợ bằng bộ máy bạo lực chẳng kém của Bormann thời Hitle. Và điều này cũng đang là một thực tế không thể lảng tránh, không thể chối bỏ ở Việt Nam trong cái thời điểm tranh tối tranh sáng này. Điều rất cần phải nói thêm là cái “ý thức hệ XHCN” mà thế lực giáo điều bảo thủ quyết kiên định bám lấy lại gắn chặt với “người đồng chí láng giềng cùng chung ý thức hệ”. Đây chính là tử huyệt của thế lực bảo thủ, giáo điều.
Trong tâm thế Việt Nam, kẻ đầu hàng, câu kết với bọn xâm lược cướp nước không có tên gọi nào khác là bọn bán nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đổi tên là Đảng Lao động Việt Nam năm 1951 tại Việt Bắc: “mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần yêu nước ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Hãy chú ý: lũ “bán nước” đặt trước “lũ cướp nước”. Đây là điểm nhạy cảm bậc nhất trong tâm lý, tình cảm của người Việt Nam ở bất cứ tầng lớp xã hội nào, sinh sống ở đâu, trong nước hay ngoài nước, tôn giáo tín ngưỡng ra sao.
Khi mà Tập Cận Bình đã hiện nguyên hình là một tên bành trướng Đại Hán hung hãn và xảo quyệt, trắng trợn tuyên bố việc xâm chiếm lãnh thổ của đất nước ta ở Hoàng Sa, Trường Sa và các đảo chìm đảo nổi nằm trong vùng tranh chấp ở Biển Đông là miễn bàn vì đó là của tổ tiên hắn để lại. Thế rồi giàn khoan 981 lại ngạo ngược kéo vào như một thách thức và làm áp lực cho những kẻ yếu bóng vía trước thếm Đại hội XII, thì toan tính và hành động dại dột của những kẻ dựa vào Trung Quốc để bám giữ cái ghế quyền lực sẽ chạm đúng vào điểm nhạy cảm bậc nhất ấy. Mọi mưu ma chước quỷ học được từ ông thầy, mọi thủ đoạn quay quắt được tính toán kỹ lưỡng từ xa chỉ càng lột cái mặt nạ xấu xa không sao che đậy được trước đôi mắt tinh tường của công luận.
Phải chăng khuyến cáo của Paul Krugman có lý không chỉ đối với nhà kinh doanh mà càng đúng hơn với những kẻ đang kinh doanh quyền lực: “Khi khủng hoảng trở nên trầm trọng, những cách tư duy thông thường không còn đúng nữa: cái bạn cho là tốt thực ra là tệ hại, cái mà bạn tưởng là thận trọng thực ra lại đầy rủi ro, và sự khôn ngoan lại hóa ra là dại dột”.
Vậy thì cái gì mới thật sự là “thận trọng” và “khôn ngoan”? Thuận theo ý nguyện của dân, đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển đất nước, đó chính là sự khôn ngoan nhất của những ai đang thận trọng chon chỗ đứng và hướng đi cho mình.
Bưng bít thông tin, bóp méo sự thật, bóp nghẹt tự do tư tưởng, đàn áp những người đấu tranh cho quyền làm chủ đích thực của người dân theo đúng nguyên lý từng được rao giảng “quyền hành và lực lượng đều nơi dân” để duy trì một chính sách ngu dân có bài bản không còn là bảo bối của chế độ toàn trị phản dân chủ trước những thành tựu của cuộc cách mạng thông tin và mạng internet nối mạng toàn cầu. Nếu tập quán của một xã hội tiểu nông đã định hình một lối sống là điểm tựa vững chắc của chủ nghĩa giáo điều mao ít thì internet lại đang là bệ phóng của tiến trình dân chủ hoá đang phát triển mạnh mẽ không cách gì cản được.
Theo số liệu mới được công bố bởi Tổ chức thống kê số liệu Internet quốc tế (internetworldstats), tính đến hết tháng 6/2015, Việt Nam đã có 45,5 triệu người dùng internet, đạt mức thâm nhập/dân số là 48%, xếp thứ 6 trong khu vực châu Á về số lượng người dùng, đứng thứ 17/20 quốc gia có lượng người dùng internet nhiều nhất thế giới. Đó là một sức mạnh cực kỳ lớn lao mà chế độ toàn trị phản dân chủ không sao lường hết được.
Sức mạnh ấy biết hướng đất nước đi về đâu trong thời đại của nền văn minh trí tuệ và nền kinh tê tri thức. Ai là người đi tiên phong trên con đường đưa đất nước đi vào quỹ đạo của phát triển ấy nếu không là giới trí thứcthế hệ trẻ đang sở hữu những thành tựu của công nghệ mới để nhạy bén nắm bắt thông tin. Không chỉ thông tin trong nước mà còn là thông tin trên thế giới. Họ hiểu khá rõ thời cơ chưa từng có với tiến trình hội nhập đi vào chiều sâu với những Hiệp ước được ký kết với Châu Âu, với khu vực ASEAN, với Nhật Bản, đặc biệt là với TPP, tạo ra khả năng to lớn đưa đất nước đi tới, thoát khỏi hiểm hoạ biến thành chư hầu của Tàu mà từ năm 1990 với mật ước Thành Đô đã có lời cảnh báo về “một thời kỳ bắc thuộc mới có thể đang bắt đầu”.
Chỉ những kẻ ngu ngốc không nắm bắt được thông tin về thời cuộc mới mơ hồ trước mưu toan đưa đất nước chui vào cái thòng lọng của đế chế Trung Hoa thời Tập Cận Bình. Không ai muốn là đồng loã của bọn bán nươc cầu vinh, trở thành tội đồ của lịch sử.
Bỗng nhớ lại vẻ mặt đăm chiêu và những ánh mắt đồng tình rực sáng của lớp sinh viên khoa Triết khoá 1 Đại học Tổng hợp Hà Nội cách đây 25 năm đối với ý tưởng của một nhà xã hội học Đức tôi dẫn ra trong bài giảng: “những bức tường xã hội có sẵn trước khi chúng ta ra đời nhưng cũng được chúng ta xây nên. Chúng ta bị giam cầm bởi chính sự hợp tác của chúng ta”. Đã đến lúc phải đập vỡ bức tường đó để mở đường cho cuộc sống mới, cuộc sống của đất nước, trong đó có cuộc sống của chính mình. Được sự khích lệ bởi những ánh mắt ấy, tôi bắt tay vào viết tiểu luận “Chân lý là cụ thể” trong thời điểm ấy. Quá trình viết tiểu luận này chính là quá trình tôi tự suy ngẫm về bức tường ý thức hệ do chính tôi góp phần xây dựng nên để rồi bị cầm tù trong vòng vây khủng khiếp của chính cái được xây nên đó. Đó cũng là khởi đầu một quá trình tự thanh lọc tâm hồn mình. Giữ lại những gì được nhìn nhận là những giá trị tốt đẹp mà mình trân trọng như những kỷ niệm đẹp của một thời trai trẻ giàu khát vọng và say mê đi tìm lý tưởng sống phù hợp với sự định hình nhân cách. Đồng thời mạnh dạn gạt bỏ những gì là sai lầm, là ảo tưởng, là lừa mị. Từ trong quá trình nghiền ngẫm và tự thanh lọc đó tôi kiến nghị lấy lại tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và trở lại với tên Đảng là Đảng Lao động Việt Nam.
Tôi nhận thức rất rõ là rồi sẽ phải đối diện với những thách đố gay gắt và ứng xử nghiệt ngã. Cho nên, rất ngẫu nhiên, song nghĩ lại thì cũng là logic khi tôi dẫn ra hai câu thơ trong bài “Cảm hoài” của một danh sĩ cuối triều Trần. Nói là logic vì tâm trạng bức xúc trước những bề bộn, ngổn ngang trong nhìn nhận và tự lý giải cho mình về thế sự.
Trong sự bi phẫn có chen vào cảm hứng bi hùng từ tứ thơ tuyệt đẹp của người tráng sĩ thời tao loạn ở buổi mạt kỳ vương triều Trần thế kỷ XIV chuyển sang XV trong cuộc chiến không cân sức chống quân xâm lược nhà Minh. Đẹp với hình tượng trong câu thơ mà người đời gọi là “thi trung hữu hoạ”: Thù nước chưa trả mà mái tóc đã bạc sớm, Bao phen mang gươm báu mài dưới bóng trăng. “Quốc thù vị báo đầu tiên bạch, Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma”.
Ở đây không là sự bi luỵ của người bại vong thất thế, mà là cảm hứng bi hùng của một nhân cách lớn vượt lên trên số phận, có sức dựng người ta dậy, nâng người ta lên, đẩy người ta đi tới. Hình ảnh mài gươm dưới ánh trăng có sức thăng hoa khó biểu đạt bằng lời, chỉ có thể nói là nó quá đẹp. Cái đẹp nâng lên tầm cái cao cả. Không chỉ Đặng Dung, đại văn hào Nguyễn Du cũng từng dựng lên một hình tượng bi hùng như vậy qua câu thơ “Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên”. Trong niềm cảm khái đó mà tôi tự phân tích mổ xẻ về tư tưởng và nhận thức của chính mình rồi viết ra.
Để làm gì? Để công khai và minh bạch chính kiến của mình, đấu tranh chống lại những gì tôi cho là “cũ kỹ hư hỏng” để hướng tới những cái “mới mẻ tốt tươi”. Tôi viết trong tư thế ấy. Tôi không mài gươm vì cũng chẳng có gươm báu để mài. Tôi mài ngọn bút. Người ta đã “rút phép thông công” cấm cửa tôi trên báo “quốc doanh”, trong các diễn đàn chính thống, thì tôi lại có một khoảng trời rất rộng để “trông vời trời biển mênh mang”.
Thì ra “hoạ trung hữu phúc”, trong cái rủi có cái may. Vùng thoát ra khỏi vòng cương toả của một cơ chế bóp nghẹt cá tính, độc quyền tư tưởng để có thể giành lấy cho mình quyền tự quyết định hành động và cách ứng xử của riêng mình, chịu trách nhiệm lấy chính mình là một may mắn. Tự do trong suy nghĩ, nghiêm cẩn và táo bạo trong tư duy để hướng tới mục tiêu của cuộc sống mà vì nó mình dấn thân từ lúc đầu xanh cho đến lúc tóc bạc không chịu bất cứ một sự chỉ đạo nào ngoài bộ óc trong cái đầu bạc của mình là một ân huệ. Vì thế tôi hay đọc thầm trong óc câu thơ của Aragon đã nhập tâm “Những gì ta yêu phải cứu thoát ra. Tự mình ta, tự mình ta”.
Tự mình ta” không là sự cô độc hay tự cô lập mình, mà là cách khẳng định trách nhiệm cá nhân. Đã đến lúc phải rạch ròi trách nhiệm cá nhân đối với cuộc sống của đất nước, cũng là trách nhiệm cá nhân trước lịch sử, không thể dựa giẫm, ỷ lại vào bất cứ một lực lượng bên ngoài nào. Đặc biệt là khi “suối đã đục dòng, chỉ lệ còn trong” [Aragon] thì sự tường minh về thái độ là một đòi hỏi của lương tri, lương năng của người có lương tâm. Câu nói của Mạnh Tử bỗng có sức lay động vào cái buổi nhố nhăng, hệ thống giá trị đảo lộn này: “nhân chi sở bất học nhi năng giả, kỳ lương năng dã. Sở bất lự nhi tri giả, kỳ lương tri dã” [Mạnh Tử. Tận tâm thượng]. Những điều mà con người không học mà làm được thì gọi là “lương năng”, không cần suy nghĩ mà biết được thì gọi là “lương tri” vậy.
Phải chăng vào thời khắc khẩn trương quyết liệt này, đánh thức lương tri, lương năng của con người, trước hết là những đảng viên là đại biểu đi dự Đại hội, là các Uỷ viên BCHTƯ đang sắp bước vào Hội nghị TƯ thứ 14 trước những vung vãi của ngôn từ, lời lẽ, mưu toan, thủ đoạn chất chứa bao tham vọng của cuộc tranh giành quyền lực trước thềm Đại hội XII là một việc làm cần thiết?
Chao ôi, tôi những muốn chân thành nói thêm với những ai đó rằng: Giàu sang ở đời chớp nhoáng như giọt sương trong hoa. Quyền lực ở đời mong manh như bọt nước đầu ghềnh như các cụ ta xưa đã dạy. Bọt nước tan đi không còn một thoáng gợn, nhưng cái sẽ đọng lại vĩnh viễn trong lòng nhân dân là nghĩa cả đối với tổ quốc. Dám đặt tổ quốc lên trên hết, trước hết. Cái đó sẽ trường tồn với non sông đất nước.
Chính điều ấy khuấy động mối “cảm hoài” trong những thoáng gợn suy tư về thời gian mênh mông, “thế sự du du”, trời đất cũng mênh mông vô tận, “vô cùng thiên địa”. Trong cái mênh mông đó ngời sáng lên hình ảnh của người tráng sĩ với khát vọng “hữu hoài phù địa trục” dù phải xoay trục quả đất mà có thể cứu được nước thì cũng làm, những muốn “vô lộ vãn thiên hà”, kéo sông trời xuống mà rửa sạch giáp binh, đem lại hạnh phúc cho muôn dân.
 Ấy vậy mà đó là ý chí và khát vọng của người ở trong thế nước đang suy. Thế nhưng ông cha ta cũng đã dạy “chuyện thịnh suy ở đời chỉ như giọt sương trên ngọn cỏ chẳng có gì đáng sợ hãi” [Nhậm vận thịnh suy vô bố uý, Thịnh suy như lộ thảo đầu phô. [Quốc sư Vạn Hạnh -1018]. Có bản lĩnh đó thì mới có khí phách của người kiên trì mài gươm báu nuôi chí lớn diệt giặc cứu nước khi mà vận nước đang chao đảo trước nạn ngoại xâm còn lực lượng cứu nước thì lại đang dồn sức cho việc tranh chấp ngôi vị. Lịch sử dường như đang lặp lại, chuyện cay đắng đó cũng đang là mối nguy nhỡn tiền. Chính vì vây phải viện dẫn đến cha ông, lắng nghe “những buổi ngày xưa vọng nói về”[Nguyễn Đình Thi] những mong đánh thức lương tri, lương năng vẫn còn ẩn kín trong mỗi con người Việt Nam yêu nước nhận rõ cần phải làm gì vào lúc này.
Mạo muội nói lên điều đó để hiểu cho thật rõ chúng ta đang ở trong một thời điểm mà thách thức gắn liền với vận hội. Tỉnh táo vượt qua thách thức, có bản lĩnh đón lấy vận hội, quyết đoán và dung cảm dấn bước trên con đường phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, đó chính là sự chọn lựa của chúng ta. Không một trở lực nào ngăn nổi xu thế phù hợp với quy luật vận động của lịch sử. Không thể lại đánh mất cơ hội để đất nước lại chìm đắm trong những ngày đen tối mới của thân phận chư hầu của một siêu cường hung đồ đang nhe nanh múa vuốt để khuất phục những kẻ yếu bóng vía với cái não trạng bạc nhượcnếu để xảy ra đụng độ gì thì tình hình bây giờ bất ổn thế nào, chúng ta có ngồi đây mà bàn việc tổ chức đại hội Đảng được không”. Phải làm sống lại cái khí phách hữu hoài phù địa trục” của ông cha ta, dám kéo sông trời xuống mà rửa sạch nhục nô lệ và lạc hậu. Không chịu khuất phục trước áp lực của Trung Quốc Tập Cận Bình, đó là xu thế không gì ngăn cản nổi.
Vận nước đang giục giã mỗi người Việt Nam yêu nước quyết đẩy tới xu thế mạnh mẽ ấy để khẳng định tiến trình dân chủ hoá đất nước gắn làm một với chống chủ nghĩa bành trướng Đại Hán của Tập Cận Bình là không gì cản được. Phải chăng đây mới là niềm cảm khái của người hiểu rõ quy luật vận động của cuộc sống để cảm nhận được những gì cần đến sẽ đến khi bước vào năm 2016.
03.1.2016
T.L (Tác giả gửi BVB)
-----------

19 nhận xét:

  1. Người giác ngộlúc 19:44 3 tháng 1, 2016

    Bài viết quá dài và quá cao siêu, một người phàm hiểu biết ít như tôi không hiểu hết được. Tôi cố gắng đọc hết một lần và cảm nhận được ngọn lửa trong Gs vẫn được duy trì và chờ dịp bùng cháy.
    Cám ơb Gs.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Gs viết bài này cho "16 vị La hét" đương tọa vị chùa Ba Đình thì coi như gãy đàn tai trâu điếc!

      Xóa
    2. Hay, 16 vị La Hét chùa Thăng Long, hoặc 16 vị La Hét chùa Ba Đình. La hét 85 năm rồi mà chưa nhằm nhò chi, vẫn la hết nữa, cho đến hết TK 21, nhiều quá, gào lên vì 'ý thức hệ' làm thiên hạ phát kinh!

      Xóa
    3. 感懷
      世事悠悠奈老何
      無窮天地入酣歌
      時來屠釣成功易
      運去英 雄飲恨多
      致主有懷扶地軸
      洗兵無路挽天河
      國讎未報頭先白
      幾度龍泉戴月磨

      Phiên âm Hán-Việt:
      Cảm hoài
      Thế sự du du nại lão hà?
      Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
      Thời lai đồ điếu thành công dị,
      Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
      Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
      Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
      Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
      Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.
      (Đặng Dung, 鄧容, ?-1414)

      Xóa
    4. Xem lại bài thơ: Các vị La Hán chùa Tây Phương của cố nhà thơ Huy Cận.
      Các vị La Hán chùa Tây Phương
      Tôi đến thăm về lòng vấn vương.
      Há chẳng phải đây là xứ Phật,
      Mà sao ai nấy mặt đau thương ?

      Đây vị xương trần chân với tay
      Có chi thiêu đốt tấm thân gầy
      Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
      Tự bấy ngồi y cho đến nay.

      Có vị mắt giương, mày nhíu xệch
      Trán như nổi sóng biển luân hồi
      Môi cong chua chát, tâm hồn héo
      Gân vặn bàn tay mạch máu sôi.

      Có vị chân tay co xếp lại
      Tròn xoe từa thể chiếc thai non
      Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
      Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn....

      Các vị ngồi đây trong lặng yên
      Mà nghe giông bão nổ trăm miền
      Như từ vực thẳm đời nhân loại
      Bóng tối đùn ra trận gió đen.

      Mỗi người một vẻ, mặt con người
      Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời
      Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã
      Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi.

      Mặt cúi nghiêng, mặt ngoảnh sau
      Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
      Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
      Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.

      Có thực trên đường tu đến Phật
      Trần gian tìm cởi áo trầm luân
      Bấy nhiêu quằn quại run lần chót
      Các vị đau theo lòng chúng nhân ?

      Nào đâu, bác thợ cả xưa đâu ?
      Sống lại cho tôi hỏi một câu:
      Bác tạc bấy nhiêu hình khô hạnh
      Thật chăng chuyện Phật kể cho nhau ?

      Hay bấy nhiêu hồn trong gió bão
      Bấy nhiêu tâm sự, bấy nhiêu đời
      Là cha ông đó bằng xương máu
      Đã khổ, không yên cả đứng ngồi.

      Cha ông năm tháng đè lưng nặng
      Những bạn đương thời của Nguyễn Du
      Nung nấu tâm can vò võ trán
      Đau đời có cứu được đời đâu!

      Đứt ruột cha ông trong cái thuở
      Cuộc sống giậm chân hoài một chỗ
      Bao nhiêu hi vọng thúc bên sườn
      Héo tựa mầm non thiếu ánh dương.

      Hoàng hôn thế kỷ phủ bao la
      Sờ soạng, cha ông tìm lối ra
      Có phải thế mà trên mặt tượng
      Nửa như khói ám, nửa sương tà.

      Các vị La Hán chùa Tây Phương!
      Hôm nay xã hội đã lên đường
      Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại
      Xua bóng hoàng hôn, tản khói sương ?

      Cha ông yêu mến thời xưa cũ
      Trần trụi đau thương bỗng hoá gần!
      Những bước mất đi trong thớ gỗ
      Về đây, tươi vạn dặm đường xuân.


      27-12-1960




      Xóa
  2. sau DH 12 roi se tinh. dung nen trach voi 16 vi. trong do van co nguoi sang suot.

    Trả lờiXóa
  3. Kệ,có sao đâu ông Lại Văn Linh,trâu có nghe đàn thì chắc chắn khôn hơn trâu không được nghe mà ! Nó không điếc đâu,ông đừng lo !

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. ông nỉnh ông Ninh
      ông ra ngoài đình lại gặp ông Nang
      Ông nảng ông Nang
      ông ra ngoài đình lại gặp ông Ninh !

      Xóa
  4. "Lý tưởng nào cũng ôn hòa. Nhưng lòng tham của con người đã tạo ra bạo lực"
    (Mahatma Gandhi)

    Trả lờiXóa
  5. Trường giang, sóng sau xô sóng trước!...

    Trả lờiXóa
  6. Nguyễn Du nói đúng => " ngẫm hay muôn sự tại Trời !' hay quá,chí lí quá !Nhưng thưa đấng Thê Tôn,sức chịu đựng của con dân có hạn ! Kính xin Đức ngài mở rộng lòng soi xét,đã 3/4 thế kỷ rồi,máu và nước mắt đã thành sông thành biển rồi,đủ chưa kính thưa Đức Ngài ?

    Trả lờiXóa
  7. Nguoi Viet mo mong that. Giac dung truoc cua nha roi ma van chi dac y voi nhung triet luan, triet luan va .... triet luan !

    Trả lờiXóa
  8. Có những quốc gia , dân số chỉ bằng TP Hà Nội , nhưng khi đội nhà ra sân thi đấu , cổ động viên của họ hô " Tổ quốc trên hết " để truyền thêm sức mạnh , còn lớp trẻ VN mang cờ CS đi phá đám lễ tưởng niệm anh hùng liệt sĩ ngay dưới chân tượng đài lịch sử . Tổ quốc là gì và ở đâu , không phải người VN nào cũng trả lời được .

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Tuổi trẻ VN có mang hình lãnh tụ vào sân bóng gào thét đó chứ. Oái oăm thay, thường là "thua trên thế thắng".

      Xóa
  9. Trương Minh Tịnhlúc 05:00 4 tháng 1, 2016

    Cám ơn GS Tương Lai về bài viết tuyệt vời nầy.

    Trả lờiXóa
  10. Lấy lí luận đáp trả lí luận,chỉ có những bài viết như của Đại tá Bùi Văn Bồng,của Giaos sư Tương Lai thì mới tương xứng.Ông C.Mac viêt Tư Bản Luận lúc mới 37 tuổi-cai tuổi mà theo quan điêm của Dảng ta hiện nay thì còn quá trẻ làm gì đã có đủ kinh nghiệm làm lãnh đạo.Nhưng những người Cộng sản đã trót hô:CHỦ NGHĨA MAC-LÊ NIN BÁCH CHIẾN BACH THĂNG mất rồi nên hiện nay đang sai lầm nghiêm trọng vẫn cứ không chịu thừa nhân,vẫn cố chấp.Môt quốc gia theo CNCS mà lại đi cầu xin những nước Tư ban tự do công nhận Viêt Nam có nền kinh tế THỊ TRƯỜNG thì bao nhêu năm xây dưng chủ Nghĩa Xã Hội thành công đên mức nào.Thực tiễn ở Việt Nam mấy thập niên qua chứng minh một điêu:Nếu cố con đương XHCN thì Đảng đã sai lầm không đưa Dân tộc đi đúng đương.Mà nếu quả thực không có nó-CON ĐƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA thì phải công khai thừ nhận sai lâm để giải thoát cho Dân tộc,hầu mong Viêt Nam tiến kịp cac nươc láng giềng trong khối Asean.

    Trả lờiXóa
  11. Trong bài viết của giáo sư Tương Lai có nhắc đến Hồ Chí Minh, ai cũng thấy Hồ Chí Minh là người sáng lập ra Đảng cộng sản VN này, du nhập chủ nghĩa Mác- Lê để lãnh đạo và định hướng đất nước là do sự chỉ đạo của Mao Trạch Đông. Thành quả có xã hội ngày hôm nay nó đang diễn ra là do Hồ Chí Minh xây dựng nên, không ai phủ nhận được. Vì vậy, nó mới có phong trào học tập tấm gương đạo đức HCM ở mọi nơi, mọi chỗ. Bao năm qua, tôi đã đi trên mọi nẻo đường của đất nước, các nơi công cộng, trường học ở đâu cũng có hình ảnh HCM, tượng đài và nhà thờ. Nhìn thấy đó mà thấy tiếc tiền bạc, công sức của nhân dân đổ ra biết bao nhiêu mà đến nay không có ai học. Cụ thể nhất là Nông Đức Mạnh khởi xướng chỉ đạo, bắt mọi người học tập. Hôm nay, ai cũng tự hỏi, Nông Đức Mạnh học được cái gì? Hay là HCM chính là Nông Đức Mạnh?? Xem lại di chúc của HCM, yêu cầu sau khi chết được hỏa táng chỉ để lại ít tro tàn chia làm ba nơi, để ở ba miền Trung Nam Bắc làm kỉ niệm. Có những lúc, tôi rủ bạn bè đi thăm các bãi tha ma, thấy những lọ than trên những nấm mồ của ai đó, lại ngẫm đến xã hội ngày hôm nay, người ta rùm beng, thần thánh HCM, chăng biểu ngữ, tung hô quá trời về nhân vật này. Tôi nhớ lại lời di chúc của Bác, tôi tâm sự với bạn tôi rằng:"Ở nơi nào có những nắm tro tàn, xương cốt cháy, thì nơi đó mới chính thống là ước nguyện, kết quả đường lối của HCM." Vì vậy, Đảng cộng sản VN đã tài tình, định hướng cho toàn dân học tập đễ có xã hội như thế này.

    Trả lờiXóa
  12. Thú nhận tôi ngại đọc bài viết dài và điển tích nhiều quá nên chỉ lướt qua nhưng cảm nhận Gs Tương Lai là người yêu nước.

    Trả lờiXóa
  13. Năm mới, trước ngày trở dạ.

    Tết đến Mẹ gồng mình trong cơn trở dạ
    Tưởng chín tháng mười ngày, Mẹ đằng đẵng chín mươi năm
    Thì ở cử, Mẹ hết đứng lại nằm
    Đêm ngày thổn thức lo gặp ca đẻ khó

    Gương liếp tày đình mười một lần còn đó
    Mang nặng đẻ đau mà con cái chẳng chu toàn
    Tưởng ngoại bát tuần đã thoát nợ lo toan
    Vẫn lụ khụ ôm bút nghiên đàm đạo

    Thế gian người ta xoay vần như con tạo
    Quy luật sinh tồn có học thuyết Anhstanh
    Gần đất xa trời Bố vẫn loanh quanh
    Ôm khư khư mớ bồng bông nuôi mầm loạn

    Vào phòng sinh, Mẹ lo hậu sản
    Lòng quặn đau, nên co thắt chẳng thành
    Khổ lủ con, ngơ ngác loanh quanh
    Muốn đẻ hộ mà không thể được....

    Giá lúc xưa Mẹ suy sau, tính trước.
    Cứ túc tắc theo nhân loại đã đi
    Đừng đón đầu,tắt lối mà chi
    Cơn đau đẻ bây giờ chắc sẽ dể

    Nhưng Mẹ ơi ! trong cơn dâu bể
    Con tin rằng, vượt cạn sẽ thành công
    Dẫu can qua có thể đắng lòng.
    Mang nặng đẻ đau, cố một lần trở dạ!

    Trọng Hiến, mồng 5 tháng 1 năm 2016

    Trả lờiXóa