Lời giới thiệu: Năm 1989, khi những cải cách ở Trung Quốc và
Liên Xô đang diễn ra sâu rộng và cuộc Chiến tranh Lạnh chuẩn bị chính thức kết
thúc, Francis Fukuyama đã xuất bản bài viết gây tiếng vang “Sự cáo chung của lịch
sử?” trên tạp chí The National Interest. Dựa trên các tư tưởng của Hegel,
Fukuyama cho rằng vào thời điểm bấy giờ có thể coi lịch sử đã “cáo chung”
theo nghĩa rằng “đó là điểm kết thúc trong cuộc tiến hóa tư tưởng của loài
người và sự phổ quát hóa của dân chủ tự do phương Tây với tư cách là thể thức
cuối cùng của sự cai trị con người” bởi các hệ tư tưởng cạnh tranh, điển hình
là chủ nghĩa Mác-Lênin, đã bị đánh bại. Dù nhiều luận điểm trong bài viết còn
gây tranh cãi nhưng rõ ràng đây là một bài viết có nhiều ảnh hưởng, thể hiện
qua việc đến nay đã được trích dẫn hơn 10.000 lần. Nghiencuuquocte.net xin
trân trọng giới thiệu tới bạn đọc bản dịch của bài viết này.
Khi xem xét dòng sự kiện trong khoảng một thập kỉ vừa qua, khó mà
tránh khỏi cảm nhận là thứ gì đó rất căn bản đã xảy ra trong lịch sử thế giới.
Năm vừa qua chứng kiến một loạt các bài viết tưởng niệm sự chấm dứt Chiến tranh
Lạnh và thực tế là “hòa bình” đã nở rộ ở nhiều khu vực trên thế giới. Hầu hết
những phân tích này thiếu một khuôn khổ khái niệm rộng lớn hơn để phân biệt giữa
cái gì là bản chất với cái gì là ngẫu nhiên hay tình cờ trong lịch sử thế giới,
và vì vậy không khó để thấy sự hời hợt của chúng. Nếu Gorbachev bị hất cẳng khỏi
điện Kremlin hay một thủ lĩnh Hồi giáo (Ayatollah) mới tuyên bố một thời kỳ
cách mạng hoàng kim cho một thủ đô hoang tàn của Trung Đông, thì cũng chính những
nhà bình luận đó sẽ tranh nhau loan báo về sự tái sinh của một kỷ nguyên xung đột
mới.
Tuy nhiên, tất cả những người này đều mơ hồ nhận ra rằng có một tiến
trình lớn hơn đang diễn ra, một tiến trình khiến các dòng tít chính của báo chí
mỗi ngày luôn thể hiện sự gắn kết và có trật tự. Thế kỉ 20 chứng kiến thế giới
phát triển bộc phát thành những xung đột về ý thức hệ, khiến chủ nghĩa tự do
ban đầu phải cạnh tranh với những tàn tích của chủ nghĩa chuyên chế, sau đó là
chủ nghĩa Bôn-sê-vích và chủ nghĩa phát xít, và cuối cùng là một thứ chủ nghĩa
Mác được cập nhật những tư tưởng mới vốn đe dọa dẫn tới một ngày tận thế bởi
chiến tranh hạt nhân. Nhưng một thế kỷ bắt đầu với sự tự tin tràn đầy về một
chiến thắng cuối cùng của dân chủ tự do phương Tây dường như vào những năm cuối
cùng lại quay lại chu kỳ mà nó bắt đầu: không phải là sự “kết thúc của ý thức hệ”
hay sự hội tụ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội như một số người dự liệu
trước đó, mà là một chiến thắng chắc chắn của chủ nghĩa tự do về kinh tế và
chính trị.
Thắng lợi của phương Tây, hay mẫu mực lí tưởng phương Tây, được thể
hiện rõ ràng trước hết ở sự thiếu vắng những hệ thống khả dĩ có thể thay thế
cho chủ nghĩa tự do phương Tây. Trong thập kỉ vừa qua đã có những biến đổi
không thể nhầm lẫn trong môi trường tư tưởng của hai quốc gia cộng sản lớn nhất
thế giới và sự khởi đầu những trào lưu cải cách vĩ đại ở cả hai nơi này. Song
hiện tượng này vượt ra ngoài khuôn khổ chính trị cấp cao và có thể nhìn thấy được
qua sự lan tỏa không thể tránh khỏi của văn hóa tiêu dùng Tây phương trong những
bối cảnh khác nhau, ví dụ như những thị trường nông phẩm và tivi màu giờ có mặt
khắp nơi ở Trung Quốc, những nhà hàng hợp tác và cửa hiệu quần áo khai trương
năm qua ở Matxcơva, nhạc Beethoven văng vẳng trong các trung tâm thương mại Nhật
Bản, và nhạc rock được yêu thích ở khắp Praha, Rangoon hay Tehran.
Những
gì chúng ta đang chứng kiến không chỉ là sự cáo chung của Chiến tranh Lạnh, hay
sự trôi qua của một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử sau Chiến tranh thế giới lần
thứ hai, mà còn là sự cáo chung của lịch sử theo nghĩa rằng đó là điểm kết thúc
trong cuộc tiến hóa tư tưởng của loài người và sự phổ quát hóa của dân chủ tự
do phương Tây với tư cách là thể thức cuối cùng của sự cai trị con người. Điều
này không có nghĩa là sẽ không còn sự kiện nào nữa để lấp đầy những trang viết
tóm lược quan hệ quốc tế mỗi năm của tờ Foreign Affairs, bởi vì sự thắng
thế của chủ nghĩa tự do đã diễn ra chủ yếu trong địa hạt tư tưởng hay ý thức và
vẫn còn chưa hoàn chỉnh trong thế giới vật chất thật. Song có những lí do mạnh
mẽ để tin tưởng rằng đó chính là lý tưởng sẽ thống trị thế giới vật chất trong
dài hạn. Để hiểu điều này, trước hết chúng ta cần xem xét một vài vấn đề lí luận
tập trung vào bản chất tự nhiên của những biến đổi lịch sử.
I.
Ý niệm về sự cáo chung của lịch sử không phải là một ý niệm mới mẻ.
Người truyền bá nổi tiếng nhất là Các Mác, ông tin rằng chiều hướng phát triển
lịch sử là một chiều hướng có mục đích được quyết định bởi những lực lượng vật
chất tác động lẫn nhau và sẽ chỉ kết thúc khi đạt được xã hội cộng sản không tưởng
vốn có thể giải quyết triệt để được mọi mâu thuẫn trước đó. Nhưng quan niệm về
lịch sử như một quá trình biện chứng với một khởi đầu, điểm giữa và kết thúc đã
được Mác mượn từ bậc tiền bối người Đức vĩ đại Georg Wilhelm Friedrich Hegel.
Dù muốn hay không, rất nhiều ý niệm lịch sử của Hegel đã trở thành
một phần hành trang tri thức hiện đại của chúng ta. Quan niệm cho rằng loài người
phát triển qua một chuỗi giai đoạn nhận thức ban sơ trên tiến trình tới hiện tại
và những giai đoạn này tương ứng với những hình thái tổ chức xã hội – như bộ lạc,
chiếm hữu nô lệ, chính trị thần quyền và cuối cùng là xã hội dân chủ quân bình
– đã trở nên không thể tách rời khỏi những hiểu biết hiện đại về con người.
Hegel là triết gia đầu tiên phát biểu ngôn ngữ của khoa học chính trị hiện đại
đến chừng mực mà theo ông, con người là sản phẩm của môi trường lịch sử xã hội
cụ thể chứ không phải là sự tập hợp những thuộc tính “tự nhiên” ít nhiều bất biến
như những nhà lý luận về quyền tự nhiên trước đó đã phát biểu. Sự làm chủ và biến
đổi môi trường tự nhiên của con người thông qua ứng dụng khoa học và công nghệ
không phải là khái niệm nguyên bản của Mác mà là của Hegel. Tuy nhiên, không giống
như những nhà lịch sử chủ nghĩa sau này, mà thứ chủ nghĩa tương đối về lịch sử (là
tư tưởng cho rằng chân lý không bất biến mà thay đổi tùy vào cách nhìn nhận của
từng giai đoạn lịch sử – NHĐ) của họ thoái hóa thành thứ chủ nghĩa tương đối
đơn thuần không rõ căn nguyên, Hegel lại tin rằng lịch sử sẽ thăng hoa ở một thời
điểm tuyệt đối, thời điểm mà ở đó một hình thái xã hội và nhà nước phù hợp, tối
hậu sẽ giành chiến thắng.
Điều
không may cho Hegel là ông được biết đến ngày nay chủ yếu như là vị tiền bối của
Mác, và cũng không may là rất ít người trong số chúng ta quen thuộc với những
tác phẩm của Hegel thông qua nghiên cứu trực tiếp, mà chủ yếu biết đến chúng một
cách không chính xác thông qua lăng kính của chủ nghĩa Mác. Tuy nhiên, ở Pháp
đã có một nỗ lực nhằm cứu Hegel thoát ra khỏi những diễn giải của chủ nghĩa Mác
và tái sinh ông với tư cách là một triết gia sáng suốt nhất khi nói về thời đại
của chúng ta. Trong số những nhà nghiên cứu hiện đại về Hegel ở Pháp, người lỗi
lạc nhất chắc chắn là Alexandre Kojève, một người Nga nhập cư xuất chúng giảng
dạy một chuỗi chuyên đề gây nhiều ảnh hưởng tại trường Ecole Practique des
Hautes Etudes[1] ở Paris trong những năm 1930. Trong khi không được biết đến
nhiều ở Mỹ thì Kojève lại có ảnh hưởng lớn trong đời sống học thuật ở Châu Âu.
Trong số những học trò của ông có những danh nhân sau này như Jean-Paul Sartre
thuộc cánh tả và Raymond Aron thuộc cánh hữu; thuyết hiện sinh sau chiến tranh
vay mượn nhiều phạm trù cơ bản từ Hegel thông qua Kojève.
Kojève tìm cách tái hiện Hegel của cuốn Hiện tượng học về tư
duy (Phenomenology of Mind), một Hegel từng tuyên bố rằng lịch sử cáo chung vào
năm 1806. Ngay từ khi ấy, Hegel đã nhìn thấy ở chiến thắng của Napoleon trước
vương triều Phổ qua trận Jena một sự lên ngôi của lí tưởng cách mạng Pháp và sự
phổ quát hóa sắp xảy đến của mô hình nhà nước thu nạp những nguyên tắc về tự do
và bình đẳng. Bất chấp những sự kiện hỗn loạn trong vòng một thế kỉ rưỡi tiếp
theo đó, Kojève không những không bác bỏ Hegel mà còn khẳng định rằng Hegel về
căn bản đã đúng.[2] Trận Jena đánh dấu sự kết thúc của lịch sử bởi vì vào thời
điểm đo đội tiên phong của nhân loại (một thuật ngữ khá quen thuộc với
chủ nghĩa Mác) đã hiện thực hoá được những nguyên tắc của Cách mạng Pháp. Dù vẫn
còn nhiều việc phải làm sau năm 1806 – như bãi bỏ chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ,
mở rộng quyền bầu cử cho công nhân, phụ nữ, người da đen và các chủng tộc thiểu
số khác, vv… – thì những nguyên tắc nền tảng của nhà nước dân chủ tự
do đã đạt tới đỉnh cao của mình. Hai cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỉ này
cùng những biến động và cách mạng đi kèm chỉ có tác động mở rộng không gian áp
dụng của những nguyên tắc đó, nhằm đưa những khu vực khác nhau của nền văn minh
nhân loại tiến đến mức ngang bằng với những tiền đồn tiến bộ nhất và buộc những
xã hội Châu Âu và Bắc Mỹ trong vai trò đội tiên phong của văn minh nhân loại phải
thi hành chủ nghĩa tự do của mình một cách đầy đủ hơn.
Mẫu hình nhà nước xuất hiện vào giai đoạn cuối của lịch sử mang
tính chất tự do trong chừng mực nó công nhận và bảo vệ quyền tự do của con người
thông qua hệ thống luật pháp, và mang tính chất dân chủ trong chừng mực mà theo
đó nó hiện hữu chỉ khi có sự chấp thuận của người dân. Theo Kojève, cái gọi là
“nhà nước đồng nhất phổ quát” hiện thân thực tế trong những quốc gia Tây Âu hậu
chiến tranh – chính xác là những nhà nước cồng kềnh, giàu có, tự mãn, hướng nội,
nhu nhược đó mà dự án vĩ đại nhất của họ không có gì hơn là sự thành lập đầy quả
cảm của Thị trường Chung.[3] Nhưng điều đó chỉ là ước vọng. Bởi lịch sử nhân loại và
những xung đột đặc trưng cho nó dựa trên sự tồn tại của những “mâu thuẫn”: việc
tìm kiếm sự công nhận lẫn nhau của con người nguyên thủy, mâu thuẫn giữa chủ nô
và nô lệ, sự cải tạo và làm chủ thiên nhiên, sự đấu tranh cho việc công nhận phổ
quát các quyền, và sự đối nghịch giữa tư bản với vô sản. Song trong những nhà
nước đồng nhất phổ quát, mọi mâu thuẫn trước đó đều được giải quyết và mọi nhu
cầu của con người đều được thoả mãn. Không còn đấu tranh hay xung đột về những
vấn đề lớn và hệ quả là không cần các tướng lĩnh hay chính khách; những gì còn
lại chủ yếu chỉ là hoạt động kinh tế. Và quả thực, cuộc đời của Kojève cũng phù
hợp với những gì ông dạy. Tin rằng không còn việc gì để làm cho các triết gia nữa
bởi vì Hegel (được hiểu một cách đúng đắn) đã tìm ra được những kiến thức tuyệt
đối, Kojève nghỉ dạy sau khi chiến tranh kết thúc và làm công chức trong Cộng đồng
Kinh tế Châu Âu suốt quãng đời còn lại cho đến lúc qua đời năm 1968.
Đối với những người cùng thời vào giữa thế kỉ, sự khẳng định của
Kojève về sự cáo chung của lịch sử có vẻ giống như một thứ thuyết duy ngã lập dị
điển hình của một nhà trí thức Pháp, như đã từng xuất hiện ngay sau Chiến tranh
thế giới lần thứ hai và ở thời kỳ cao điểm của Chiến tranh Lạnh. Để hiểu làm
sao Kojève có thể táo bạo đến mức khẳng định rằng lịch sử đã kết thúc, trước hết
chúng ta cần phải hiểu ý nghĩa của chủ nghĩa duy tâm Hegel.
II.
Đối với Hegel, những mâu thuẫn điều khiển lịch sử xuất hiện trước
tiên trong địa hạt ý thức con người, nghĩa là ở cấp độ về tư tưởng [4] – không phải những đề xuất tầm thường trong năm bầu cử của
các chính trị gia Mỹ, mà là những tư tưởng theo nghĩa thế giới quan hợp nhất rộng
lớn có thể được gọi tốt nhất là “ý thức hệ”. Ý thức hệ theo nghĩa này không giới
hạn ở những học thuyết chính trị rõ ràng và thế tục mà chúng ta vẫn thường hay
liên tưởng tới, mà có thể bao hàm tôn giáo, văn hoá cũng như phức hợp những giá
trị luân lí làm nền tảng cho bất kì xã hội nào.
Quan
điểm của Hegel về mối tương quan giữa tư tưởng và thế giới thực tại hay thế giới
vật chất vô cùng phức tạp, bắt đầu với thực tế rằng đối với ông sự phân đôi giữa
hai thế giới chỉ là biểu hiện bề ngoài.[5] Ông không tin là thế giới thực tuân theo hoặc có thể bị
làm cho tuân theo những định kiến ý thức hệ của các giáo sư triết học một cách
dễ dãi, hoặc là thế giới “vật chất” không thể can thiệp vào tư tưởng. Thực tế,
Hegel trong vai trò giáo sư đã nhất thời bị mất việc bởi một sự kiện hết sức vật
chất, đó là trận Jena. Tuy nhiên, trong khi việc viết lách và suy nghĩ của
Hegel có thể bị chấm dứt bởi một viên đạn từ thế giới vật chất, thì bàn tay đặt
trên cò súng tới lượt nó lại được thúc đẩy bởi những tư tưởng về tự do và bình
đẳng đã điều khiển cuộc Cách mạng Pháp.
Theo Hegel, mọi hành vi của con người trong thế giới vật chất, và
từ đó là lịch sử nhân loại, có nguồn gốc từ trạng thái ý thức có trước – tương
tự như ý tưởng mới được phát biểu bởi John Maynard Keynes sau này khi ông nói rằng
quan điểm của các chính khách thường bắt nguồn từ những nhà kinh tế quá cố và
những học giả tồi của các thế hệ trước. Ý thức này có thể không rõ ràng và
không tự nhận thức được như các học thuyết chính trị hiện đại, song lại có thể
mang hình hài của các tôn giáo hoặc các tập quán văn hoá hay đạo lý đơn giản.
Tuy nhiên, địa hạt ý thức này về lâu dài nhất định sẽ được hiển thị
trong thế giới vật chất, và thực tế là sẽ sáng tạo nên thế giới vật chất theo
hình dung của riêng nó. Ý thức là nguyên nhân, không phải là hệ quả, và nó có
thể phát triển độc lập so với thế giới vật chất, vì thế ý nghĩa thực sự nằm dưới
mớ bòng bong những sự kiện thời sự chính là lịch sử của tư tưởng.
Chủ nghĩa duy tâm Hegel chịu số phận hẩm hiu dưới tay những nhà tư
tưởng sau ông. Mác đã đảo lộn hoàn toàn thứ tự ưu tiên của vật chất và tinh thần,
đưa toàn bộ địa hạt của ý thức – như tôn giáo, nghệ thuật, văn hoá, và bản thân
triết học – thành một “thượng tầng kiến trúc” được định đoạt hoàn toàn bởi
phương thức sản xuất vật chất phổ biến nhất. Thế nhưng một di sản không may
khác của chủ nghĩa Mác là xu hướng chúng ta sa vào các kiến giải duy vật hay vị
lợi chủ nghĩa về các hiện tượng chính trị hoặc lịch sử, cũng như thái độ bất đắc
dĩ của chúng ta khi tin tưởng vào sức mạnh độc lập của tư tưởng. Một ví dụ gần
đây là tác phẩm hết sức thành công của Paul Kenedy Sự hưng thịnh và suy
vong của các cường quốc (The Rise and Fall of the Great Powers), vốn đã qui sự
suy tàn của các cường quốc là do sự bành trướng kinh tế quá mức. Hiển nhiên điều
này đúng trên một vài cấp độ: một đế chế có nền kinh tế vừa trên mức sinh tồn
không thể cứ để ngân khố của mình phá sản một cách vô hạn định được. Song liệu
một xã hội công nghiệp hiện đại có năng suất cao lựa chọn dành ra 3 hay 7% GNP
cho quốc phòng hay tiêu dùng lại hoàn toàn là một vấn đề thuộc về ưu tiên chính
trị của xã hội đó, và điều này đến lượt nó lại được định đoạt trong địa hạt ý
thức.
Khuynh hướng thiên về chủ nghĩa duy vật trong tư tưởng hiện đại
không chỉ là đặc trưng của những người cánh tả vốn có thể đồng cảm với chủ
nghĩa Mác, mà còn của nhiều người chống chủ nghĩa Mác quyết liệt. Quả thực,
bên cánh hữu có cái mà ta có thể gọi là trường phái Tạp chí Phố Wall về
duy vật định mệnh (deterministic materialism), là trường phái tối giản tầm quan
trọng của tư tưởng và văn hoá, đồng thời coi con người về căn bản như là một cá
nhân duy lý, luôn tìm cách tối đa hoá lợi nhuận. Chính kiểu cá nhân này cùng với
sự theo đuổi các mưu cầu vật chất của anh ta được ấn định trong các sách giáo
khoa kinh tế học như là nền tảng của đời sống kinh tế. Một ví dụ nhỏ sẽ minh hoạ
cho đặc điểm bất ổn của quan điểm duy vật chủ nghĩa kiểu này.[6]
Max
Weber bắt đầu quyển sách nổi tiếng của ông, Đạo đức Tin Lành và tinh thần
của chủ nghĩa tư bản (The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism), bằng
cách liệt ra những thành tích kinh tế khác biệt của các cộng đồng Tin Lành và
Công giáo ở khắp Châu Âu và Châu Mỹ, tất cả được gói gọn lại bằng câu cách ngôn
rằng người Tin Lành ăn ngon còn người Công giáo ngủ ngon. Weber lưu ý rằng theo
như bất kì lí thuyết kinh tế nào coi con người là những kẻ duy lí luôn tối đa
hoá lợi nhuận, thì tăng mức tiền công sẽ làm tăng năng suất lao động. Nhưng sự
thật là trong nhiều cộng đồng nông dân truyền thống, tăng tiền công lại có tác
dụng ngược lại, thể hiện ở việc làm giảm năng suất lao động: khi có mức tiền
công cao hơn, một người nông dân quen với việc kiếm một mác rưỡi mỗi ngày sẽ cảm
thấy có thể kiếm được lượng tiền tương đương bằng cách làm ít hơn, và anh ta sẽ
làm như vậy bởi anh ta đề cao sự nghỉ ngơi hơn so với thu nhập. Lựa chọn nghỉ
ngơi thay vì thu nhập, hay giữa cuộc sống quân nhân của các chiến binh thành
Sparta với sự giàu có của những thương nhân thành Athen, hay thậm chí giữa cuộc
sống kham khổ của các doanh nhân tư bản chủ nghĩa buổi sơ kỳ với cuộc sống thường
nhàn rỗi của các nhà quý tộc, tất cả đều không thể nào giải thích được bằng tác
động phi ý thức của các lực lượng vật chất, mà thay vào đó điều này chủ yếu xuất
phát từ lĩnh vực ý thức, cái mà ở đây chúng ta gọi chung là tư tưởng. Và quả thực,
một mệnh đề trung tâm trong tác phẩm của Weber là chứng minh rằng, trái ngược với
Mác, phương thức sản xuất vật chất không phải là “nền tảng” (hạ tầng kiến trúc)
mà chính là “thượng tầng kiến trúc” với cội rễ nằm trong tôn giáo và văn hoá,
và rằng để hiểu được sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng như các động
cơ lợi nhuận, chúng ta phải nghiên cứu khởi nguồn của chúng trong địa hạt tinh
thần.
Nếu chúng ta nhìn ra khắp thế giới đương đại, sự nghèo nàn của các
lý thuyết duy vật về phát triển kinh tế là điều quá rõ ràng. Trường phái Tạp
chí Phố Wall về duy vật định mệnh thường lấy sự thành công kinh tế rực rỡ
của Châu Á trong mấy thập kỷ vừa qua làm minh chứng cho sự ưu việt của kinh tế
thị trường tự do, với hàm ý rằng mọi xã hội sẽ chứng kiến sự phát triển tương tự
nếu họ chỉ cần cho phép dân chúng theo đuổi mối tư lợi về vật chất một cách tự
do. Tất nhiên thị trường tự do cũng như hệ thống chính trị ổn định là điều kiện
tiên quyết cần có cho tăng trưởng kinh tế tư bản chủ nghĩa. Nhưng cũng rõ ràng
không kém là di sản văn hoá của các xã hội Viễn Đông ấy, các quan niệm đạo đức
của họ về công việc, sự cần kiệm và về gia đình, một di sản tôn giáo không gây
nên các rào cản đối với một số hình thức của hành vi kinh tế như trong đạo Hồi,
cùng với những phẩm chất tinh thần đã bám rễ rất sâu, tất cả đều là những nhân
tố không kém phần quan trọng trong việc giải thích thành tựu kinh tế của họ.[7] Thế nhưng ảnh hưởng tri thức của chủ nghĩa duy vật lớn đến
nỗi không có một lý thuyết phát triển kinh tế đương đại đáng kể nào xem xét một
cách nghiêm túc vấn đề ý thức và văn hóa trong vai trò một ma trận mà ở đó hành
vi kinh tế được định hình.
Nếu
không hiểu được rằng cội rễ của hành vi kinh tế nằm trong địa hạt ý thức và văn
hoá sẽ dẫn đến sai lầm chung là gán các nguyên nhân vật chất cho các hiện tượng
mà về cơ bản là mang bản chất tinh thần. Ví dụ, ở phương Tây nhiều người lý giải
các phong trào cải cách đầu tiên ở Trung Quốc và gần đây nhất là ở Liên Xô như
là thắng lợi của vật chất đối với tinh thần, nghĩa là sự thừa nhận rằng các động
lực tư tưởng không thể thay thế được cho các động lực vật chất trong việc kích
thích một nền kinh tế hiện đại năng suất cao, và rằng nếu muốn giàu có thì người
ta phải viện tới những thể thức hèn kém của tính tư lợi. Thế nhưng, nếu quan
sát, những khiếm khuyết sâu sắc của các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã hiển hiện
từ 30 hay 40 năm nay rồi. Vậy vì sao các nước này lại từ bỏ chế độ kế hoạch hoá
vào thập kỷ 1980? Câu trả lời nhất định phải được tìm thấy trong nhận thức của
tầng lớp tinh hoa và giới lãnh đạo những nước ấy, những người đã quyết định chọn
cuộc sống giàu có và mạo hiểm của người Tin lành thay vì lựa chọn con đường
nghèo khổ nhưng yên ổn của người Công giáo.[8] Sự thay đổi đó không phải trở nên hiển nhiên bởi các điều
kiện vật chất ở cả hai nước vào đêm trước của cải cách, mà trái lại, xuất phát
từ sự chiến thắng một tư tưởng này đối với một tư tưởng khác.[9]
Đối với Kojève, cũng như những người theo phái Hegel chân chính,
thấu hiểu các quá trình nền tảng của lịch sử đòi hỏi phải hiểu rõ những phát
triển trong địa hạt ý thức hay tư tưởng, bởi vì ý thức xét cho cùng sẽ tái tạo
lại thế giới vật chất theo chính hình ảnh của nó. Nói lịch sử đã cáo chung vào
năm 1806 có nghĩa rằng sự tiến hoá về tư tưởng của loài người đã chấm dứt bằng
những lý tưởng của cuộc Cách mạng Pháp hay Mỹ: dù một số chế độ cụ thể nào đó
trong thế giới thực có thể còn chưa thực thi những lý tưởng này một cách đầy đủ,
thì chân lý lý thuyết của chúng vẫn là tuyệt đối và không thể cải tạo cho tốt
hơn được nữa. Do đó, đối với Kojève, việc ý thức của thế hệ người dân Châu Âu
sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai chưa được phổ quát hoá ra khắp thế giới
không quan trọng; nếu như sự phát triển của tư tưởng trên thực tế đã chấm dứt
thì nhà nước đồng nhất rốt cục sẽ giành chiến thắng trên toàn bộ thế giới vật
chất.
Tôi
không có đủ chỗ cũng như nói thẳng ra là không đủ khả năng để bảo vệ cho sự
uyên thâm trong quan điểm duy tâm cấp tiến của Hegel. Vấn đề không phải là liệu
hệ thống của Hegel có đúng hay không, mà là liệu nhãn quan của ông có phơi bày
được hết bản chất có vấn đề của rất nhiều kiến giải duy vật mà chúng ta vẫn thường
coi như hiển nhiên. Điều này không có nghĩa là phủ nhận vai trò của các nhân tố
vật chất theo đúng bản chất của chúng. Đối với một người duy tâm chân thành, xã
hội loài người có thể được dựng nên từ bất cứ một tập hợp các nguyên tắc nào mà
không cần tính tới mối quan hệ của chúng với thế giới vật chất. Và trên thực tế
con người đã chứng minh là bản thân họ có thể vượt qua được những thống khổ về
mặt vật chất nhân danh các tư tưởng vốn chỉ tồn tại trong địa hạt tinh thần, dù
đó là phẩm chất thần thánh của những con bò hay trong bản chất của Chúa Ba
Ngôi.[10]
Nhưng trong khi nhận thức của con người về thế giới vật chất được
định hình bởi ý thức lịch sử của anh ta về nó, thì thế giới vật chất rõ ràng vẫn
có thể tác động trở lại đến sự tồn tại của một trạng thái ý thức nào đó. Đặc biệt,
sự sung túc đáng kinh ngạc của các nền kinh tế tự do tiên tiến và theo đó là nền
văn hoá tiêu dùng hết sức đa dạng dường như vừa thúc đẩy vừa duy trì chủ nghĩa
tự do trong lĩnh vực chính trị. Tôi muốn tránh cách nhìn định mệnh luận duy vật
vốn cho rằng kinh tế tự do tất yếu sản sinh ra chính trị tự do, bởi tôi tin rằng
cả kinh tế lẫn chính trị đều cần phải có một trạng thái ý thức độc lập trước đó
giúp cho chúng xuất hiện. Nhưng trạng thái ý thức cho phép sự phát triển của chủ
nghĩa tự do dường như ổn định theo cách mà chúng ta kỳ vọng vào lúc lịch sử cáo
chung nếu nó được hậu thuẫn bởi sự sung túc của một nền kinh tế thị trường tự
do hiện đại. Chúng ta có thể tóm tắt nội dung của nhà nước đồng nhất phổ quát
như là một nền dân chủ trong lĩnh vực chính trị kết hợp với sự phồn vinh trong
lĩnh vực kinh tế.
III.
Sự thật là chúng ta đã đạt tới giai đoạn cáo chung của lịch sử hay
chưa? Hay nói cách khác, liệu còn có những “mâu thuẫn” cơ bản nào trong đời sống
nhân loại vẫn không thể giải quyết được trong bối cảnh chủ nghĩa tự do hiện đại,
mà có thể giải quyết được bằng một cấu trúc kinh tế – chính trị khác hay không?
Nếu chấp nhận những tiên đề duy tâm ở trên, chúng ta phải tìm kiếm lời giải đáp
cho câu hỏi này trong địa hạt ý thức và tư tưởng. Nhiệm vụ của chúng ta không
phải là trả lời tường tận những thách thức đối với chủ nghĩa tự do gây ra bởi
những kẻ gàn dở lập dị trên khắp thế giới mà chỉ tập trung vào những gì tiêu biểu
hiện thân trong các phong trào và lực lượng chính trị xã hội trọng yếu, những
nhân tố góp phần định hình lịch sử thế giới. Với mục đích đó, những tư tưởng lạ
lẫm xuất hiện ở Albania hay Burkina Faso không quan trọng, bởi vì chúng ta chỉ
lưu tâm đến những gì mà người ta theo một nghĩa nào đó có thể gọi là di sản tư
tưởng chung của nhân loại.
Trong
thế kỉ vừa qua, có hai thách thức chính đối với chủ nghĩa tự do đến từ chủ
nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa phát xít[11] coi sự yếu đuối về chính trị, chủ nghĩa vật chất, sự bất
ổn và thiếu tinh thần cộng đồng của phương Tây như là những mâu thuẫn cơ bản
trong các xã hội tự do mà chỉ có thể được giải quyết bởi một nhà nước mạnh rèn
dũa nên một “dân tộc” mới dựa trên nền tảng thịnh vượng của quốc gia. Chủ nghĩa
phát xít với tư cách là một hệ tư tưởng sống đã bị kết liễu bởi Chiến tranh thế
giới lần thứ hai. Dĩ nhiên đây là một sự thất bại chủ yếu trên cấp độ vật chất,
song nó cũng tương đương với một sự thất bại về mặt tư tưởng. Thứ hủy diệt chủ
nghĩa phát xít trong vai trò một tư tưởng không phải là sự chối bỏ phổ quát về
mặt đạo đức chống lại nó, bởi vì nhiều người sẵn sàng tán đồng tư tưởng này chừng
nào nó còn được xem là làn sóng tương lai, mà chính là vì sự thiếu thành công của
nó. Sai chiến tranh, hầu hết mọi người dường như thấy chủ nghĩa phát xít Đức
cũng như những biến thể của nó ở Châu Âu và Châu Á chắc chắc sẽ tự hủy diệt.
Không có lí do vật chất nào cho thấy vì sao các phong trào phát xít có thể đã
không tái nổi dậy sau chiến tranh ở những nơi khác, mà bởi thực tế là chủ nghĩa
dân tộc cực đoan bành trướng, vốn hứa hẹn những xung đột bất tận dẫn đến thất bại
quân sự thảm hại, đã đánh mất tính hấp dẫn của nó. Đống đổ nát của của đế chế Đức
quốc xã cũng như những quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima và Nagasaki đã giết
chết ý thức hệ này trên cấp độ ý thức cũng như vật chất, và mọi làn sóng ủng hộ
chủ nghĩa phát xít noi gương các ví dụ ở Đức và Nhật Bản điển hình như phong
trào theo tư tưởng của Peron ở Achentina hoặc lực lượng Quân đội Quốc gia Ấn Độ
của Subhas Chandra Bose đã bị tàn lụi sau chiến tranh.
Những thách thức về tư tưởng được đưa ra bởi những ý thức hệ cạnh
tranh với chủ nghĩa tự do, như chủ nghĩa cộng sản chẳng hạn, là lớn hơn nhiều.
Mác, phát biểu theo ngôn ngữ của Hegel, khẳng định xã hội tự do chứa đựng mâu
thuẫn cơ bản giữa tư bản và người lao động không thể giải quyết được trong nội
bộ, và chính mâu thuẫn này từ đó đã cấu thành nên cáo buộc chính chống lại chủ
nghĩa tự do. Nhưng chắc chắn là, vấn đề giai cấp thực tế đã được giải quyết
thành công ở phương Tây. Như Kojève (cùng với những người khác) đã chỉ ra, chủ
nghĩa quân bình của nước Mỹ hiện đại đại diện cho sự đạt được về cơ bản một
xã hội không giai cấp như Mác từng hình dung. Điều này không có nghĩa là không
có người giàu và người nghèo ở Mỹ, hay là khoảng cách giữa họ không gia tăng
trong những năm gần đây. Tuy nhiên nguyên nhân cội rễ của bất bình đẳng kinh tế
không liên quan tới cấu trúc xã hội và luật pháp làm nền tảng của xã hội chúng
ta, vốn về cơ bản là quân bình và mang tính chất phân phối phúc lợi tương đối
bình đẳng, mà chủ yếu liên quan tới đặc tính xã hội của các nhóm dân cư cấu tạo
nên xã hội đó, vốn là di sản lịch sử của các điều kiện tiền hiện đại. Do đó người
da đen bần cùng ở Mỹ không phải là sản phẩm vốn có của chủ nghĩa tự do, mà là
“di sản của chế độ nô lệ và phân biệt chủng tộc” vốn tồn tại kéo dài sau khi chế
độ nô lệ bị bãi bỏ.
Do sự thoái lui của vấn đề giai cấp, có thể nói một cách tự tin rằng
sự hấp dẫn của chủ nghĩa cộng sản ở thế giới phương Tây phát triển ngày nay thấp
hơn so với bất cứ thời điểm nào khác kể từ khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
kết thúc. Điều này có thể đo lường được qua nhiều cách: trong việc giảm thành
viên và sức hút trong bầu cử của các đảng cộng sản lớn ở Châu Âu cũng như các
chương trình mang tính xét lại công khai của họ; trong sự thành công tương ứng
trong bầu cử của các đảng bảo thủ từ nước Anh và Đức cho đến nước Mỹ và Nhật vốn
có xu hướng ủng hộ thị trường (tự do) và chống lại vai trò quá lớn của nhà nước
một cách rõ ràng; và trong môi trường tri thức mà ở đó hầu hết thành viên “tiên
tiến” không còn tin rằng xã hội tư sản là thứ mà rốt cuộc cần phải đánh đổ. Điều
này không có nghĩa là quan điểm của giới trí thức tiến bộ ở các quốc gia phương
Tây không cực đoan theo nhiều cách khác nhau. Song những ai vẫn tin tưởng tương
lai chắc chắn phải là xã hội chủ nghĩa thường là những người đã rất lớn tuổi,
hoặc rất ít can dự vào những tranh luận chính trị thực tế của xã hội họ đang sống.
Ai đó có thể tranh luận rằng lựa chọn thay thế mà chủ nghĩa xã hội
mang lại chưa bao giờ được hưởng ứng nghiêm túc ở thế giới Bắc Đại Tây Dương (tức
Bắc Mỹ và Châu Âu), và nó được duy trì trong nhiều thập niên qua chủ yếu bởi sự
thành công bên ngoài khu vực của nó. Tuy nhiên chính ở phần thế giới ngoài Châu
Âu này lại là nơi chứng kiến sự xuất hiện của những chuyển biến ý thức hệ lớn
lao. Chắc chắn rằng sự thay đổi đáng kể nhất đã diễn ra ở Châu Á. Do sức mạnh
và khả năng thích ứng của văn hóa bản địa, Châu Á đã trở thành chiến trường cho
một lượng lớn những ý thức hệ phương Tây khác nhau du nhập vào từ đầu thế kỉ
này. Chủ nghĩa tự do ở Châu Á rất yếu thế vào thời điểm sau Chiến tranh thế giới
lần thứ nhất; ngày nay thật dễ quên rằng tương lai chính trị Châu Á trông mịt mờ
đến dường nào vào khoảng cách đây mới mười hoặc mười lăm năm. Cũng thật dễ bỏ
qua việc kết quả của cuộc đấu tranh ý thức hệ ở Châu Á tác đã động đến sự phát
triển chính trị thế giới nói chung mạnh mẽ đến dường nào.
Lựa
chọn thay thế đầu tiên đối với chủ nghĩa tự do mà đã bị đánh bại hoàn toàn ở
Châu Á chính là chủ nghĩa phát xít đại diện bởi đế quốc Nhật. Chủ nghĩa phát
xít Nhật (cũng giống như ở Đức) đã bị đánh bại bởi quân đội Mỹ trong cuộc chiến
tranh Thái Bình Dương, và nước Mỹ chiến thắng đã buộc Nhật phải lựa chọn nền
dân chủ tự do. Chủ nghĩa tự do chính trị và chủ nghĩa tư bản phương Tây khi cấy
ghép vào Nhật Bản đã được thích ứng và chuyển đổi bởi người Nhật theo cách làm
chúng khó còn có thể nhận ra.[12] Ngày nay nhiều người Mỹ đã nhận thấy rằng tổ chức công
nghiệp của Nhật rất khác với những gì thịnh hành ở Mỹ hay Châu Âu, và khó có thể
tin rằng những thủ đoạn bè phái diễn ra với Đảng Dân chủ Tự do cầm quyền lại có
chút gì đó dính dáng tới dân chủ. Tuy nhiên, chính thực tế rằng những nhân tố
kinh tế và chính trị thiết yếu của chủ nghĩa tự do đã được chắt ghép thành công
vào các thể chế và truyền thống Nhật Bản độc đáo đã đảm bảo sức sống trong dài
hạn của nó. Quan trọng hơn là sự đóng góp ngược lại của Nhật Bản đối với lịch sử
thế giới bằng cách theo chân Mỹ để tạo nên nền văn hóa tiêu dùng phổ quát thực
sự, điều vốn đã trở thành biểu tượng lẫn nền móng cho nhà nước đồng nhất phổ
quát. V.S. Naipaul khi đi tham quan Iran của Giáo chủ Khomeini không lâu sau
khi cách mạng Iran nổ ra đã ghi nhận sự hiện diện khắp mọi nơi các biển quảng
cáo các sản phẩm của Sony, Hitachi và JVC, những sản phẩm vẫn giữ nguyên được sức
hấp dẫn không cưỡng lại được của mình và cho thấy bản chất giả tạo trong việc
chế độ (Cộng hòa Hồi giáo Iran) vờ như đang phục hồi một nhà nước dựa trên sự
thống trị của luật Hồi giáo Shariah. Khát khao tiếp cận văn hóa tiêu dùng được
tạo nên trên phạm vi rộng lớn của Nhật đã đóng vai trò sống còn trong thúc đẩy
sự lan tỏa của chủ nghĩa tự do kinh tế khắp Châu Á, và do đó cũng giúp thúc đẩy
chủ nghĩa tự do về chính trị.
Thành
tựu kinh tế của các nước công nghiệp mới (NICs) khác ở châu Á noi theo tấm
gương của Nhật giờ đã trở thành câu chuyện quen thuộc. Từ lập trường của Hegel,
điều quan trọng là tự do chính trị đã diễn ra theo sau tự do kinh tế, tuy chậm
hơn nhiều người vẫn mong đợi nhưng là điều gần như chắc chắn. Ở đây một lần nữa
ta thấy sự thắng thế của ý tưởng về nhà nước đồng nhất phổ quát. Hàn Quốc đã
phát triển thành một xã hội đô thị hóa, hiện đại với tầng lớp trung lưu có học
thức cao ngày càng tăng và không thể bị biệt lập với những trào lưu dân chủ rộng
lớn bao quanh. Trong những điều kiện này, một điều dường như vượt quá sức chịu
đựng đối với một bộ phận lớn dân cư nước này là việc bị thống trị bởi một chế độ
quân sự lỗi thời trong khi Nhật Bản, vốn chỉ phát triển trước Hàn Quốc khoảng một
thập kỉ về kinh tế, lại đã có các thể chế (dân chủ) nghị viện suốt hơn bốn mươi
năm nay. Thậm chí các chế độ xã hội chủ nghĩa trước đây như ở Miến Điện, vốn từng
bị cô lập khỏi những xu hướng lớn áp đảo ở Châu Á trong hàng thập kỷ, cũng đã bị
chèn ép bởi các áp lực trong năm qua phải tự do hóa cả hệ thống kinh tế lẫn
chính trị của nó. Người ta nói rằng sự bất mãn với lãnh đạo độc tài Ne Win đã bắt
đầu khi một sĩ quan cấp cao của Miến Điện sang Singapore chữa bệnh và đã bật
khóc khi chứng kiến Miến Điện xã hội chủ nghĩa đã bị các láng giềng ASEAN bỏ lại
đằng sau xa đến dường nào.
Tuy nhiên tác động của tư tưởng tự do đã không gây ấn tượng mạnh đến
vậy nếu nó không xâm nhập nền văn hóa lâu đời lớn nhất Châu Á, đó là Trung Quốc.
Đơn giản là sự hiện diện của Trung Quốc cộng sản chủ nghĩa đã tạo nên một cực
thay thế về hấp dẫn ý thức hệ, qua đó cấu thành nên một mối đe dọa đối với chủ
nghĩa tự do. Tuy nhiên mười lăm năm qua đã chứng kiến một hệ thống kinh tế
Mácxít – Lêninnít bị sụt giảm uy tín gần như hoàn toàn. Từ kì họp thứ ba nổi tiếng
của Ban chấp hành Trung ương khóa 10 năm 1978, Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu
chuyển hướng nông nghiệp sang kinh tế thị trường cho 800 triệu dân Trung Quốc vẫn
còn sống ở nông thôn. Vai trò của nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp đã được
giảm xuống chỉ còn việc thu thuế, trong khi nền sản xuất hàng hóa tiêu dùng
ngày càng tăng mạnh để giúp nông dân được hưởng chút hương vị của nhà nước đồng
nhất phổ quát và bằng cách đó khuyến khích sản xuất. Công cuộc cải cách đã làm
nhân đôi sản lượng ngũ cốc của Trung Quốc chỉ trong vòng 5 năm, tạo cho Đặng Tiểu
Bình một nền tảng chính trị vững chắc mà từ đó ông đã có thể mở rộng cải cách
sang các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Các số liệu kinh tế vẫn chưa mô tả hết
được động lực, sáng kiến và sự cởi mở rõ ràng ở Trung Quốc kể từ khi cải cách bắt
đầu.
Ngày
nay không thể nào mô tả Trung Quốc như một nền dân chủ tự do bằng bất cứ cách
nào. Hiện tại, mới dưới 20 phần trăm nền kinh tế đã được thị trường hóa, và
quan trọng hơn cả là nó vẫn tiếp tục được điều hành bởi một Đảng Cộng sản tự chỉ
định không có dấu hiệu cho thấy mong muốn chia sẻ quyền lực. Đặng Tiểu Bình đã không
thực hiện lời hứa nào của Gorbachev về dân chủ hóa hệ thống chính trị và Trung
Quốc cũng không có phiên bản nào giống với chương trình công khai hóa (glasnost) của
Liên Xô. Thực tế giới lãnh đạo Trung Quốc thận trọng hơn trong việc phê phán
Mao và chủ nghĩa Mao so với Gorbachev khi phê phán Brezhnev và Stalin, và chế độ
vẫn tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác – Lênin như là nền tảng ý thức hệ trên danh
nghĩa. Tuy nhiên những ai quen với quan điểm và ứng xử của giới tinh hoa đang
lãnh đạo Trung Quốc đều biết rằng chủ nghĩa Mác và nguyên tắc ý thức hệ đã trở
nên không còn thích hợp để điều hướng chính sách, và rằng chủ nghĩa tiêu dùng
tư sản lần đầu tiên có ý nghĩa thật sự ở quốc gia này kể từ sau cách mạng. Sự
tiến triển chậm của cải cách, những cuộc vận động chống “tha hóa tinh thần” và
những vụ đàn áp bất đồng chính kiến nên được coi là những điều chỉnh sách lược
trong quá trình kiểm soát một sự quá độ chính trị vô cùng khó khăn. Bằng cách
né tránh câu hỏi về cải cách chính trị trong khi chuyển nền kinh tế sang nền tảng
mới, Đặng Tiểu Bình đã phòng ngừa sự sụp đổ quyền lực vốn đã đi kèm với công cuộc
cải tổ (perestroika) của Gorbachev.
Tuy nhiên sự hấp dẫn của tư tưởng
tự do vẫn rất mạnh mẽ khi quyền lực kinh tế được pha loãng và nền kinh tế trở
nên cởi mở hơn với thế giới bên ngoài. Hiện tại có trên 20.000 sinh viên Trung
Quốc đang học tập tại Mỹ và các quốc gia phương Tây khác, hầu hết trong số họ
là con cháu của giới tinh hoa Trung Quốc. Thật khó tưởng tượng rằng khi những
người này trở về quê hương để điều hành đất nước, họ sẽ hài lòng với việc Trung
Quốc là quốc gia duy nhất ở Châu Á không bị ảnh hưởng bởi trào lưu dân chủ hóa
rộng lớn trên thế giới. Các cuộc biểu tình của sinh viên ở Bắc Kinh nổ ra lần đầu
tiên vào tháng 12/1986 và tái diễn gần đây khi Hồ Diệu Bang qua đời mới chỉ là
sự khởi đầu của áp lực chắc chắn ngày càng gia tăng đòi hỏi thay đổi hệ thống
chính trị.
…..
IV.
V.
Xem
toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Su
cao chung cua lich su.pdf
[1] Tác phẩm nổi tiếng nhất của Kojeve là Introduction à
la lecture de Hegel (Paris: Editions Gallimard, 1947), là bản ghi chép các
bài giảng ở trường Ecole Practique từ những năm 1930. Quyển sách này có phiên bản
tiếng Anh mang tựa đề Introduction to the Reading of Hegel do Raymond
Queneau thu xếp xuất bản, Allan Bloom biên tập và Nichols biên dịch (New York:
Basic Books, 1969).
[2] Về khía cạnh này Kojeve đứng trên quan điểm hoàn toàn đối
lập với những nhà diễn dịch Hegel hiện đại người Đức như Herbet Marcuse vốn
cùng quan điểm với Mác, coi Hegel như một triết gia chưa hoàn hảo và bị giới hạn
bởi lịch sử.
[3] Kojeve cũng nhận diện sự cáo chung của lịch sử giống với
“kiểu sống Mĩ” sau chiến tranh mà ông cho rằng Liên Xô cũng đang hướng tới.
[4] Quan niệm này được đưa ra trong câu cách ngôn nổi tiếng ở
phần lời bạt quyển sách Triết học của lịch sử (Philosophy of History) với
nghĩa nôm na rằng “thứ gì duy lý thì là thật, thứ gì thật là duy lý”.
[5] Quả thật, đối với Hegel thì sự phân đôi giữa thế giới tư
tưởng và thế giới vật chất bản thân nó là một sự phân đôi tạm thời mà cuối cùng
sẽ bị vượt qua bởi chủ thể tự ý thúc; trong hệ thống của ông, thế giới vật chất
bản thân nó chỉ là một khía cạnh của tư duy.
[6] Thực tế, các nhà kinh tế hiện đại thừa nhận rằng con người
không luôn luôn cư xử như một chủ thể tối đa hóa lợi ích, họ đề ra khái niệm
“tiện ích”, tiện ích ở đây có thể là thu nhập hoặc một vài dạng hàng hóa khác
có thể tối đa hóa được, ví dụ như sự nghỉ ngơi, thỏa mãn tính dục hay thú vui
triết học. Việc lợi nhuận phải được thay thế bằng một giá trị như “tiện ích” chỉ
ra được sức thuyết phục của quan điểm duy tâm.
[7] Chỉ cần nhìn vào kết quả học tập gần đây của những người
nhập cư gốc Việt trong hệ thống giáo dục Hoa Kỳ so với những bạn học gốc Tây
Ban Nha hoặc da đen là có thể thấy được nền tảng văn hóa và nhận thức có vai
trò quan trọng đến dường nào trong việc giải thích không chỉ hành vi kinh tế mà
còn cả những khía cạnh khác của đời sống con người.
[8] Tôi hiểu rằng một sự lí giải đầy đủ về nguồn gốc của những
trào lưu cải cách ở Trung Quốc và Nga phức tạp hơn nhiều so với những gì một
công thức duy nhất này có thể làm được. Lấy thí dụ, cuộc cải tổ của Liên Xô được
thúc đẩy theo một phần lớn bởi cảm giác mất an ninh của Matxcơva trong lĩnh vực
kĩ thuật – quân sự. Tuy nhiên, cả hai quốc gia trong đêm trước cải cách đều
không vướng phải khủng hoảng vật chất tới mức có thể tiên liệu trước con đường
cải cách đáng ngạc nhiên mà hai nước đã thực hiện.
[9] Vẫn chưa rõ là liệu người dân Liên Xô có mang tính chất
“người Tin Lành” như Gorbachev và sẽ đi theo con đường của ông hay không.
[10] Chính trị nội bộ của đế quốc Byzantine vời thời kỳ
Justinian tập trung vào mối xung đột giữa những người tin rằng sự hợp nhất của
Chúa Ba Ngôi là tự nhiên và những người tin rằng sự hợp nhất đó thuộc về ý chí.
Xung đột này ở một mức độ nào đó đã dẫn tới một cuộc xô xát giữa các cổ động
viên của các đội đua khác nhau ở sân vận động Hippodrome ở Byzantium và dẫn tới
một mức độ bạo lực chính trị đáng kể. Các nhà sử học hiện đại có khuynh hướng
tìm kiếm gốc rễ của những xung đột đó trong sự đối lập giữa các giai cấp xã hội
hay các phạm trù kinh tế hiện đại khác mà không tin là con người có thể tàn sát
lẫn nhau chỉ vì tranh cãi về bản chất của Thánh Ba Ngôi.
[11] Tôi không dùng thuật ngữ “chủ nghĩa phát xít” ở đây theo
nghĩa chính xác nhất của nó, vì tôi hoàn toàn nhận thức được sự lạm dụng thường
xuyên thuật ngữ này để phản bác bất kỳ ai theo chủ ý của người nói. “Chủ nghĩa
phát xít” ở đây chỉ bất cứ phong trào dân tộc chủ nghĩa cực đoạn nào với những
ý định phổ quát – dĩ nhiên không phải phổ quát liên quan đến chủ nghĩa dân tộc
bởi vì chủ nghĩa dân tộc mang nghĩa giới hạn về bản chất, mà liên quan đến niềm
tin của phong trào đó về quyền được thống trị các dân tộc khác. Do đó đế quốc
Nhật Bản được coi là phát xít trong khi Parauguay của Stoessner hay Chile của
Pinochet thì không. Hiển nhiên là tư tưởng phát xít không thể mang tính phổ
quát như chủ nghĩa Mác-Lenin hay chủ nghĩa tự do, nhưng cấu trúc của học thuyết
đó vẫn có thể được chuyển từ quốc này sang quốc gia khác.
[12] Tôi thận trọng khi lấy ví dụ của Nhật Bản, bởi lẽ Kojève
vào lúc cuối đời đã đúc kết rằng Nhật Bản với nền tảng văn hóa chủ yếu dựa trên
nghệ thuật chính thống cho thấy nhà nước đồng nhất phổ quát chưa thể giành chiến
thắng và lịch sử có lẽ chưa chấm dứt ở đó. Xem chú thích dài ở cuối ấn bản lần
hai của Introduction à là Lecture de Hegel, 462-3.
/Nguồn: Francis Fukuyama. “The End of History?”, The National Interest - 1989,
Biên dịch: Nguyễn Phú Lợi | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp/
Quy luật đào thải - thứ gì xấu sẽ bị loại bỏ khỏi cuộc sống!
Trả lờiXóaRat tiec la dan toc ta lai nam trong tan tich cua no
Trả lờiXóaTôi đã có mặt ở Đông Âu những năm 80 của thế kỷ trước, lúc đó thông tin liên lạc chưa phát triển, con người chưa có phương tiện để thể hiện nội tâm của họ.
Trả lờiXóaTrên đất CHDC Đức, một nước có nền kinh tế cao nhất phe XHCN thời đó, cuộc sống có vẻ khá giả hơn bởi vì Liên Xô phải bóp bụng dân chúng lại để viện trợ cho vùng đất ráp ranh với Tây Đức. để dân Đông Đức khỏi bị cuộc sống bên phía Tây lôi kéo, nhưng những cuộc vượt biên sang phía Tây vẫn liên tục xẩy ra.
Nhưng trên các đường phố, khẩu hiệu TRUNG THÀNH VỚI LIÊN XÔ treo đầy rẫy, tại cuộc kết nạp Đảng XHCN Thống nhất Đức, một trong những lời thề là TUYỆT ĐỐI TRUNG THÀNH VỚI SỰ HỢP TÁC ĐỨC XÔ
Trên thành phố Berlin các anh chàng lính trẻ vẫn mặc bộ quân phục đẹp đi dạo bên Bức tường phân chia Đông Tây, nhưng vào một đêm đông lạnh lẽo, đi qua khu rừng phân Ranh giới Đông Tây, chúng tôi chỉ nhìn thấy những người lính Liên Xô mặc áo Ca pốt dài gần kín gót chân lùi lũi đi gác đêm, một anh bạn thốt lên với người bạn Đức ngồi bên cạnh: "Các cậu sướng thật, lính các cậu mặc trang phục đẹp dạo chơi trên đường phố, con nơi gian khổ này đã có lính Liên Xô" Anh bạn Đức trả lời "Họ gác giúp chúng tôi hay họ ngăn cản chúng tôi? Khi có sự xẩy ra, chưa biết súng sẽ quay hướng nào"
Không ngờ chẳng bao lâu sau, bức tường Berlin bị đạp đổ trong một đêm thật và khu rừng ngăn Đông Tây không còn bóng người lính Liên Xô nào..... Ít lâu sau thì Moskva cũng rung động nốt và Liên Xô sụp đổ.
Tình hình ngày nay đã khác hẳn. CSVN đang đàn áp khắp nơi, CSTQ cũng xâm nhập vào VN đủ kiểu, nhưng lòng dân phẫn nộ thì đang được thể hiện ngày càng rõ ràng và mạnh mẽ hơn
Hiện đã có trên 30 triệu sử dụng phương tiện thông tin đại chúng, nếu một cuộc
CÁCH MẠNG MỀM, thậm chí một cuộc
CÁCH MẠNG VŨ TRANG
nổ ra bất cứ lúc nào thì chỉ sau 5 phút, 30 triệu đã đổ ra đường hưởng ứng.
Nhưng người dân VN lúc này không định làm như vậy, ĐCSVN đã suy đồi tột độ không chỉ hại dân mà còn bán nước, cái xâu của ĐCS đã khiến phần đông Đảng viên và lãnh đạo đảng chán ghét, muốn ly khai muốn xoa bỏ.
Bởi vậy, người dân Việt Nam muốn đất nước VN được chuyển hóa trong không khí hòa bình, êm đẹp,
Người VN muốn
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Y}J GIẢI THỂ
và toàn thể người dân Việt cùng nhau
ĐOÀN KẾT ĐÁNH ĐUỔI BỌN TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC, BẢO VỆ TOÀN VẸN LÃNH THỔ VN như cha ông ta vẫn làm
Bởi vậy, để chấm dứt giai đoạn lịch sử này, nhân dân Việt Nam kêu gọi những người Cộng sản hãy tự giác và ,
BẤT CỨ AI NÊU CAO NGỌN CỜ BẢO VỆ TỔ QUỐC LÀ ĐƯỢC NHÂN DÂN THEO VÀ TÔN LÊN LÀ ANH HÙNG DÂN TỘC
Dan luong Thien-da song o DDR ma au tri vo cung ,ngu ngo va dot ve chinh tri-ong nen hieu rang nguoi dan DDR ho tu dam bao nen KT cua minh ma con phai cong nap cho LX, ho con phai nuoi ca may van quan LX dong tren lanh tho DDR.Con Vn thi cu nhu bay gio khong co thay doi dau ---vi nha nao cung co nguoi than ,ho hang la CS ,ho ca ne va so hai cho nen khong co cuoc CM nao dau -cac vi ha mieng cho sung cu ngoi day ma doi.
XóaLiên Xô và các nước Đông Âu kết thúc là tự thân chuyển động, không có tác động ở bên ngoài theo cả nghĩa tốt lân nghĩa xấu.
Trả lờiXóaChúng ta ngày nay chỉ còn lại anh TQ bạn vàng đang chơi xấu chúng ta, đang âm mưu nuốt gọn chúng ta để cùng chết chung, nên đã thúc đẩy khích lệ lòng yêu nước của dân chúng, của những người cộng sản còn lương tri và của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Mỹ.
Bởi vậy cuộc CÁO CHUNG này mang đầy ý nghĩa, nó sẽ thực sự kết thúc
MỘT THẾ KỸ TÀN KHỐC CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN.
Nếu Việt Nam chuyển đổi từ chế độ độc tài toàn trị, độc đảng, qua chế độ dân chủ pháp trị, đa đảng, chính trường việt nam sẽ chuyển biến ra sao?
Trả lờiXóaHiện tại, đây là một giả định, tương lai sớm muộn sẽ là một hiện thực khách quan. Vì như chúng tôi đã khẳng định nhiều lần trong các bài viết trước đây, gần nhất là bài “Việt Nam Đã và Đang Đi Về Đâu” đã được Đài VOA cho đăng tải trên diễn đàn này, rằng Việt Nam sẽ đi đến dân chủ và nhất định phải đi đến dân chủ. Vì đó là chiều hướng phát triển tất yếu của lịch sử và thực tiễn Việt Nam, phù hợp với xu thế thời đại toàn cầu hóa.
I – Chuyển biến sinh hoạt chính trường trong chế độ dân chủ pháp trị, đa đảng.
Nếu Việt Nam đã chuyển đổi từ chế độ độc tài toàn trị, độc đảng, qua chế độ dân chủ pháp trị, đa đảng, tất nhiên phải có sự chuyển biến sinh hoạt chính trường một cách phù hợp. Bởi vì sinh hoạt chính trường trong chế độ độc tài toàn trị, độc đảng có nhiều khác biệt, nếu không muốn nói là hoàn toàn trái ngược với sinh hoạt chính trường trong chế độ dân chủ pháp trị, đa đảng. Trong chế độ dân chủ pháp trị, đa đảng, sinh hoạt chính trường phải theo nguyên tắc sinh hoạt dân chủ, trong khuôn khổ Hiến pháp và hệ thống pháp luật dân chủ, đa đảng.
Hiến pháp dân chủ đa đảng xác lập quyền tham gia vào guồng máy công quyền quốc gia cho mọi cá nhân công dân và các tổ chức chính trị. Luật pháp dân chủ đa đảng qui định rõ quyền, nghĩa vụ và cách thức sinh hoạt chính trị cho cá nhân và các chính đảng, phương cách tham gia công quyền. Nghĩa là mọi chính đảng hay cá nhân chính trị gia muốn nắm quyền lực cai trị quốc gia các cấp, các ngành từ trung ương đến các địa phương đều phải thông qua con đường ứng cử, tranh cử và bầu cử tự do, không thông qua bất cứ sự trung gian chọn lọc, giới thiệu tiền định nào khác.
....
...
THEO VOA BLOG
https://www.ttxva.net/neu-vn-chuyen-doi-qua-che-do-dan-chu-da-dang-chinh-truong-vn-se-ra-sao/
Vật chất quyết dịnh ý thức . Đó là triết học biện chứng. Vì thế "ai thắng ai" phụ thuộc vào năng suất lao động hay chính là mức độ tự do của toàn XH : càng tự do càng giàu có. Nền quản trị quóc gia của chính trị càng đơn giản và hẹp thị tự do càng nhiều. Dễ hiểu thế nhưng những " đỉnh cao trí tuệ" không hiểu được và cũng không muốn hiểu , kể cả các " gà sống thiến sót".
Trả lờiXóaDuy vật và Duy tâm cùng song song tồn tại.
XóaTôi tin rồi có 1 ngày dân chúng chịu ko nổi quyết Tâm ko đóng thuế hoặc chậm đóng CN đình công mọi người bất tuân chính quyền và tất cả người dân Quyết ko lo loát tiền của dù bất cứ giá nào v..v.. Triệu ngưới như một kêu gọi Đồng lòng liệu CQCS có tồn tại được ko ? Biết các cấp cao CS co nghỉ đến dây ko . Ko lí họ bắt hết cả triệu triệu người được sao và xử họ tội gì? -DÂN LÀ NƯỚC CÓ THỂ NHẬN CHÌM LUẬT TỪ XƯA ĐẾN NAY .Chuwa nói hành động gì ghê gớm khác
Trả lờiXóa