BVB - Giáo sư Judith Ladinsky, một người bạn lớn của Việt Nam , có nhiều đóng góp giúp người dân Việt Nam và được báo chí gọi là Madame Việt Nam . Là Giáo sư
khoa y tế dự phòng của Trường Đại học Wisconsin-Madison, Giám đốc tiểu ban Khoa
học Y tế của Ủy ban Mỹ về hợp tác khoa học với Việt Nam, bà được xem là người
Mỹ được biết đến nhiều nhất ở Việt Nam.
Judith Ladinsky (hay Judy Ladinsky / 1938-2012) là
giáo sư đã về hưu của Khoa Y tế dự phòng, trường International Health - UW
Medical School, Đại học Wisconsin-Madison. Bà từng là Giám đốc của Văn phòng
Nội vụ Y tế Quốc tế tại Trường Y Khoa của University of Wisconsin - Madison, và
là Giám đốc Ủy ban hợp tác khoa học với Việt Nam và Lào của Mỹ. Bà đã dạy các
khóa học về chăm sóc sức khỏe ban đầu và cung cấp chăm sóc sức khỏe nông thôn ở
Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan, và tổ chức của Sở Y tế và Sức khỏe quốc
tế. Bà đã tiến hành nghiên cứu sâu rộng trên một loạt các chủ đề chăm sóc sức
khỏe tại Việt
Judy Ladinsky sinh ngày 19/6/1938 tại Los Angeles . Bố của Judy mất khi cô 2 tuổi.
Mẹ của cô tái hôn và khi cô 14 tuổi, cả gia đình rời tới thành phố New York city . Cô theo
học tại University of Michigan tại Ann Arbor và cô gặp chồng tương lai của
mình, Jack Ladinsky, vào cuối những năm 1950s, khi cả hai người đều tham gia
vào một phong trào vì nhân quyền. Lúc đó Judy còn học đại học trong khi Jack
đang làm tiến sỹ về xã hội học.
Họ cưới nhau sau đó. Jack khi tốt nghiệp tiến sỹ đã
khởi sự tại Đại học Wisconsin-Madison. Gia đình Ladinsky tích cực tham gia vào
phong trào chống chiến tranh Việt Nam . Họ có hai con, một gái
Morissa, bác sĩ nhi khoa tại Cincinnati , OH và một con trai Mark, nhà vi trùng học ở Pasadena , CA .
Đóng góp cho
Việt Nam
Judy Ladinsky lần đầu tiên đến Việt Nam trong sự hỗn loạn sau chiến tranh năm 1978,
thời điểm khi Hoa Kỳ không có quan hệ ngoại giao với Việt Nam . Cô đã ngay
lập tức phát triển một niềm đam mê cho đất nước và con người. Năm 1980, cô trở
thành Chủ tịch Ủy ban Y tế của Ủy ban Hoa Kỳ về hợp tác khoa học với Việt Nam . Năm 1984,
cô đã trở thành Chủ tịch của tổ chức này, một vị trí cô giữ cho đến khi cô mất.
Trong thời gian này, Judy đã thực hiện hơn 112 chuyến đi đến Việt Nam, cô phát
hàng tấn vật tư y tế, sách và tạp chí đến các học viên y tế và các chuyên gia
trên khắp Việt Nam. Cô hỗ trợ phòng thí nghiệm đào tạo, phát triển của kỹ thuật
viên và bác sĩ phẫu thuật khoa học, giảng dạy trong một phạm vi rộng các ngành
cùng với công tác y tế thôn bản của mình.
GS Judy Ladinsky là người có rất nhiều đóng góp tích
cực cho Việt Nam
trong lĩnh vực y tế, giáo dục và khoa học. Bà là một trong những người Mỹ đầu
tiên sang Việt Nam
từ thập niên 1980, rất lâu trước khi hai nước bình thường hóa quan hệ, và đã
giúp đỡ tìm học bổng sau đại học cho hàng trăm giảng viên người Việt từ rất sớm.
Bà đã được trao tặng 5 huy chương của Chủ tịch nước
Việt Nam, Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ Y tế, Bộ Khoa học Công nghệ và Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam.
Trong cuốn "Vietnamerica: the war comes
home", Judy Ladinsky được mô tả là một trong những người đầu tiên sau
chiến tranh Vietnam War làm cầu nối giữa Việt Nam và Mỹ. "Cho tới nay,
những người Mỹ gốc Việt tị nạn nghĩ rằng có hai cách để rời Việt Nam, một là ODP
hai là Chương trình Judy Ladinsky" và cách thứ hai hiệu quả hơn".
Một
câu chuyện nổi tiếng đăng lên Chicago Tribune cho thấy nhiệt tình nhân đạo của
bà đã có từ những năm 1985.
Bà hiện yên nghỉ tại Công Viên Vĩnh Hằng, Sơn Tây,
cách trung tâm Hà Nội 61 km, đi theo quốc lộ 32. Ai đến thăm, thắp cho bà
ngọn nến, và nhổ giúp cỏ dại. Judy Ladinsky được mọi người tôn vinh là
"Madame Vietnam ",
"Đại sứ Mỹ đầu tiên ở Việt Nam ".
Năm 2011, tại trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á thuộc đại học Wisconsin-Madinson,
Mạng lưới Hòa bình và công lý tiểu bang Wisconsin trao giải Người xây dựng hòa
bình của năm (Peacemaker of the Year) để vinh danh bà vì sự đóng góp lâu dài
cho sự nghiệp chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam.
Bà Ladinsky đã đến Việt Nam hơn 106 lần kể từ lần đầu
tiên vào năm 1980 theo lời mời của cố Giáo sư Tôn Thất Tùng và lần cuối cùng là
vào tháng 1/2011. Trong suốt thời gian mấy chục năm qua, Giáo sư Ladinsky đã
kêu gọi các nhà khoa học và người dân Mỹ đóng góp giúp đỡ rất nhiều cho Việt Nam . Bà đặc
biệt chú ý đến lĩnh vực y tế nông thôn và vấn đề thiếu bác sĩ ở nông thôn. Bà
đã lập ra những dự án y tế nông thôn, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, chăm sóc sức
khoẻ ban đầu nhi khoa, giải phẫu, dinh dưỡng, HIV/AIDS, điều trị ung thư, và
cung cấp các thiết bị và đồ dùng ý tế để giúp Việt Nam.
Các dự án giúp Việt Nam của bà không chỉ tập trung vào
y tế mà còn về nông nghiệp, khoa học cơ bản, khoa học xã hội, văn hoá. Bà cũng
tạo điều kiện giúp đỡ cho nhiều du học sinh Việt Nam đến Hoa Kỳ học tập. Bà Ladinsky
đã giúp hơn 300 du học sinh và cán bộ nghiên cứu Việt Nam nhận được học bổng để học và nghiên cứu tại
các trường đại học ở Hoa Kỳ và Canada
kể từ năm 1989.
Căn nhà của Giáo sư Ladinsky ở Varsity Hill, thành phố
Madison , đôi khi còn được gọi là “khách sạn Việt
Nam ” vì rất nhiều nhà khoa
học Việt Nam thường hay đến
ở và du học sinh Việt Nam
hay đến ăn tối ở nhà bà. Rất nhiều thế hệ học sinh Việt Nam cũng đã từng gặp bà Ladinsky qua hàng trăm
cuộc thi TOEFL do bà Ladinsky tổ chức tại Việt Nam . Lễ thanksgiving nào, toàn thể
du học sinh Việt Nam
ở Đại học Wisconsin-Madison cũng tụ tập tại nhà bà như cuộc họp mặt gia đình
cuối năm.
Đối với du học sinh Việt Nam mới đến còn bỡ ngỡ, bà sẵn sàng
lái xe chở đi tìm nhà thuê, hướng dẫn đi mua sắm. Bà cũng sẵn sàng tìm cách
giúp đỡ khi bất cứ du học sinh Việt Nam nào tại Mỹ gặp khó khăn gì về
visa, học hành gọi điện cho bà biết.
Ông Jack Ladinsky, chồng bà, nói bà chỉ ngủ mỗi ngày 4
tiếng và làm việc không biết mệt mõi. Ông gọi bà là “human dynamo” (người phát
năng lượng). Ông nói: “Bà ấy không chấp nhận thất bại, bà ấy không chịu thua…
chỉ một chuyện có thể làm ngưng công việc của bà ấy là nếu bà ấy bất ngờ chết
trên máy bay”.
Vì những sự đóng góp không mệt mỏi của bà đối với Việt
Nam, Bà đã 5 lần được tặng huy chương: Huân chương Hữu nghị của Chủ tịch nước,
Huy chương Vì sự nghiệp giáo dục-đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Huy chương
Vì sự nghiệp Giải phóng phụ nữ Việt Nam nhân danh Ủy ban hợp tác khoa học Hoa
kỳ Với Việt nam và Quỹ Kovalevskaia, và Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp khoa học
của Bộ Khoa học và Công nghệ.
Năm 2011, tại Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á thuộc
Đại học Wisconsin-Madinson, Mạng lưới Hoà bình và Công lý tiểu bang Wisconsin,
vừa trao giải Người xây dựng hoà bình của năm (Peacemaker of the Year) để vinh
danh bà “vì sự đóng góp lâu dài cho sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ ở Việt Nam”.
Trả lời phỏng vấn báo Khoa học và Phát triển sau khi
nhận giải của Bộ Khoa học & Công nghệ bà còn hứa hẹn: “Trong thời gian tới,
chúng tôi sẽ tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động hợp tác khoa học với Bộ KH&CN.
Đây là những hoạt động đem lại lợi ích cho cả cộng đồng khoa học giữa hai nước
Mỹ và Việt Nam .
Cụ thể là hợp tác trong lĩnh vực công nghệ sinh học, năng lượng, công nghệ
thông tin, công nghệ nano, sức khoẻ cộng đồng... Chúng tôi cũng sẽ tiếp tục xác
định những lĩnh vực ưu tiên nhằm mang lại lợi ích cho các nhà khoa học của cả
hai nước”.
Nguyện vọng cuối cùng của Giáo sư Judith Ladinsky
trước khi mất là tro cốt của bà được mang sang rải ở Việt Nam .
/Giáo sư
Judith Ladinsky của Đại học Wisconson-Madison, Hoa Kỳ vừa qua đời lúc 12h05
ngày 12/1/2012 tại Bệnh viện Đại học Wisconsin-Madison sau một cơn đột quỵ/.
C.M.G (st)
----------------
Sau chiến tranh Việt Nam, MT gặp những người Mỹ đến với Hà Nội- Việt Nam, họ đều yêu mến đất nước, con người VN và hành động giúp Việt Nam như bà GS Ladinsky. Nhân cách người Mỹ là như thê. Họ phân đúng/ sai rạch ròi, đàng hoàng, công chính. Không dính chuyện này vào chuyện kia. Mỗi người luôn hành động cao cả vì mình, vì cộng đồng dân tộc mình và nhân loại. Đó là lữ sông và lẽ chết của nguwoif Mỹ.
Trả lờiXóaMT thăm Hoa Kỳ, gặp những nhà lãnh đạo quận, thành phố, họ coi chức vụ chính quyền là cơ hội để được phục vụ cộng ích cho cộng đồng, chứ không phái để vơ vét làm giầu và o ép dân.
Có bà quận trưởng chồng làm kinh tế nuôi gia đình. Bà chảng tơ hào một xu tiền thuế máu của dân.
Có lẽ một phần cũng do cơ chế quản lý công khai minh bạch, phân quyền lực của Nhà nước Hoa kỳ
Giáo sư Judith Ladinsky là ân nhân của nhân dân VN thì đúng rồi. Nhưng bảo bà là người Mỹ được biết đến nhiều nhất ở VN thì không đúng. Tổng thống Obama mới là người đó.
Trả lờiXóaNgười Mỹ được nhiêu fngười VN biết đến là George Washington (22 tháng 2, 1732 – 14 tháng 12, 1799) là nhà lãnh đạo chính trị và quân sự có ảnh hưởng lớn đối với quốc gia non trẻ Hoa Kỳ từ năm 1775 đến năm 1799. Ông đã lãnh đạo người Mỹ chiến thắng Vương quốc Anh trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ với tư cách là tổng tư lệnh Lục quân Lục địa năm 1775–1783, và ông cũng đã trông coi việc viết ra Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787. Quốc hội nhất trí chọn lựa làm tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ (1789–1797). Phong cách lãnh đạo của ông đã có ảnh hưởng đến thể thức và lễ nghi cho chính quyền mà được sử dụng từ đó cho đến nay, thí dụ như dùng một hệ thống nội các và buổi đọc diễn văn nhậm chức. Với tư cách là tổng thống, ông đã xây dựng một chính quyền quốc gia mạnh mẽ và giàu tài chính mà đã tránh khỏi chiến tranh, dập tắt nổi loạn và chiếm được sự đồng thuận của tất cả người Mỹ. Ông hiện nay được biết như vị cha già của nước Mỹ.
Xóa> Và bất kỳ ai cũng biết Washington khi nhắc đến nước Mỹ...
"The value of a person is not how much he/she got, it is how much he/she gave." Professor Judy Landinsky gave last 35 years of her life to Vietnam. As a former Vietnamese student who worked with her over 30 years, I have not see any one who love, care and devotion to Viet Nam/Vietnamese people as much as she did, including most Vietnamese that I know in Viet nam !.
Trả lờiXóaA Vietnamese researcher in US