Trang BVB1

Thứ Sáu, 21 tháng 6, 2013

'Tiếng nói' EMAIL - 23


Vũ Trọng Khải
07:55 (32 phút trước)
tới Quequyhung01TrâmHatrungdongtulinheducationTrọngtdbut2911tiemnguyenan,
 tlhung.49trongbinhthu1848Totngocsuongtranphilongbin.truonghungnamthanhkqd,
 trantrongiangphamquangdieuphivandien_vnphiet.hoanggialehuuanh1997lebalich,
 lethiphivanle.hienphuong...
From: Ly Vu [mailto:ly.daingu@gmail.com
Sent: Thursday, June 20, 2013 9:10 PM
To: B?O TOÀN; DOMI; GS. HO?T; GS. Kh?i; GS. Khánh; GS. LÂM; GS. Tu?n; HÙNG; MAI-LÂM; Mr. ???ng-APEVN; Mr. Bá Tu?n; Mr. Chu Thanh S?n; Mr. Huân; MR. HÀO-SSG GROUP; Mr. Khoa; Mr. Luc-Posco; Mr. Lâm-Siêu Thanh; Mr. Nam-Khai; Mr. S?n-KT4; Mr. Th?; Mr. Trung-Forex; Ms. DUY; Ms. GIANG-MPI; Ms. H?nh; Ms. HOA; Ms. Hu?-H?ng Ngân; Ms. Quyên; Ms. Sa-TCM; NAM-MONRE; PHÍ ?ÌNH L?C; TR??NG; TS. ALAN PHAN; TÙNG; VQ; VT
Subject: I DONT KNOW!

Nước ta giàu hay nghèo?
(LĐCT) - Số 25 - Thứ năm 20/06/2013 09:42
Thấm thoắt mà đã 6 năm. Ấy là năm 2006, tôi được dự một cuộc sinh hoạt có ông cựu Thủ tướng Đức Gerhart Schroeder dự. Ông ấy kể rằng đây là lần thứ ba ông sang Việt Nam.
Hai lần trước trong cương vị nguyên thủ một quốc gia chắc chắn là không nhỏ; lần này ông đến Việt Nam chỉ để làm tư vấn cho một hãng truyền thông của Đức đang muốn làm ăn lâu dài ở Việt Nam. Ông nói rằng, Việt Nam chắc chắn chưa phải là một nước lớn, nhưng ấn tượng của nó lại không nhỏ chút nào đối với thế hệ của ông, thế hệ phải bày tỏ thái độ đối với cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Ông ủng hộ nhân dân Việt Nam. Tôi đã gặp nhiều người nước ngoài cũng có chung một quan điểm như ông cựu Thủ tướng Đức.

Rồi tôi đọc trong sử sách, quan sát trong đời sống để tự soi xem nước mình “nhỏ hay lớn” ngay trong con mắt của những người Việt Nam. Tôi gặp vị Đại tướng đánh thắng “mấy đế quốc to” được ông chỉ giáo: Khi nào hằng ngày ta đau đáu nhìn vào thứ hạng nước mình trên các sắp hạng của thế giới, thấy biết ngượng, biết nhục vì biết mình còn nghèo nhưng không cam chịu hèn quyết chí làm giàu, tựa như thế hệ của ông khi còn trai trẻ hằng ngày đi ngang qua thành Cửa Bắc nhìn vết đạn của giặc ngoại xâm thấy nỗi nhục mất nước mà lên đường cứu nước thì ta mới lớn được...

Rồi gặp anh bạn trẻ ở Bình Dương xây khu tâm linh đặt tên là “Đại Nam”... và ông bạn già ở Thái Bình lấy “Đại Việt” làm thương hiệu cho hãng bia của mình, cả hai đều cho rằng to hay nhỏ là do tâm thế, niềm tin và hành động của mình gắn với niềm tự hào về tổ tiên...

Thế là tôi viết một bài báo nhỏ lấy đầu đề “Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?” (sau này cũng có người cật vấn vì sao không đặt tên cho bài viết là “lớn hay không lớn ?”)... Tờ báo của giới thanh niên đăng lên nhận được rất nhiều hồi âm rồi biến thành một cuộc thảo luận rộng rãi, rồi in thành sách có lời tựa của Chủ tịch Nước... Tại TP Hồ Chí Minh, tổ chức của giới trẻ chuẩn bị một cuộc ra quân rầm rộ để biểu tỏ ý chí quyết tâm “không nhỏ” của mình. Thế rồi có người ở cương vị quan trọng đặt câu hỏi “ai làm nó nhỏ” rồi quy kết trách nhiệm thêm rắc rối. Thế là cuộc thảo luận trôi qua chỉ như một trải nghiệm đáng nhớ...

Thời điểm này, sắp kết thúc kỳ họp thứ 5 của Quốc hội bàn nhiều chuyện lớn, từ sửa Hiến pháp đến sửa luật cũ làm luật mới. Diễn đàn nóng lên với những con số nợ công, những con đập thuỷ điện rung rinh dọa dẫm, những thức để ăn không phân biệt nổi sạch hay độc, những khối lượng khổng lồ vàng nhập về đem ra đấu giá mà không rõ ai được hưởng lợi tựa như những dự án làm ăn kinh tế đầu tư rất nhiều tỷ bạc rồi mà chưa biết đến lúc nào có lãi; những giải pháp cứu cấp các doanh nghiệp khỏi nguy cơ phá sản, hay sưởi ấm những bất động sản đang đóng băng bằng cách hạ cấp thành “nhà xã hội”; rồi những cảnh báo về cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường hay biến đổi khí hậu đến mức môt mai nước ta không còn mũi Cà Mau?... Và cuối cùng là một cuộc lấy phiếu tín nhiệm chưa từng có tiền lệ không chỉ ở nước ta mà điểm sáng thấy ngay là nó được thực hiện công khai một cách kín đáo.

Hai buổi thảo luận cuối cùng của kỳ họp này đề cập tới việc sửa đổi hai dự án luật được xã hội quan tâm: Đó là Luật Đất đai và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, cho nên nó được truyền hình trực tiếp. Tại những cuộc thảo luận như thế này, càng ngày càng đông người đăng ký phát biểu và để đến lượt được trình bày quan điểm của mình không phải là dễ. Đó là điều đáng mừng. Ngồi nghe những điều mọi người nói và ngẫm lại những điều mình đang nghĩ, nhớ lại câu hỏi 6 năm trước bỗng dưng lại nẩy ra câu hỏi: thế thì “nước ta giàu hay nghèo?”.

Nhớ lại 10 năm trước (2003), khi mới làm quen với sinh hoạt Quốc hội tôi đã được tham gia thảo luận sửa đổi Luật Đất đai sau 10 năm thực hiện (từ 1993). Hiểu biết về pháp luật còn sơ sài nhưng cảm quan của người làm sử khiến mình đưa ra nhận thức: Với Luật đất đai sửa đổi (2003), “quyền sở hữu toàn dân” chỉ là một “hư quyền”, “quyền sử dụng” thực sự và ngày càng trở nên một “thực quyền” (với lần bổ sung những quyền năng tiệm cận với sở hữu tư nhân), nhưng quan trọng hơn hết chính là “quyền đại diện” hay “quyền định đoạt” của bộ máy hành pháp (từ cơ sở lên cấp cao nhất) chính là một “đặc quyền”. Những yếu tố quyền lực ấy đựơc vận hành trong cơ chế của “tư duy nhiệm kỳ” và “tư duy dự án” hẳn sẽ mang lại những hệ quả vô lường.

Gần một thập kỷ sau, chính các đồng nghiệp làm báo đã trích lại những điều ấy và tự mình thấy những gì xẩy ra rất gần với những dự báo ấy. Không ai không thấy những đổi thay bộ mặt của đất nước với sự tích tụ đất đai đủ để xây dựng những công trình hạ tầng hoành tráng, đủ sức cho sự vùng vẫy những ý tưởng táo bạo cho sự phát triển, hình thành những tầng lớp xã hội giàu có xênh xang những cơ ngơi, tiện nghi mà những người giàu ở những nước giàu cũng phải đắn đo khi mua sắm. Đất đai như cây đũa thần mang lại những giàu sang, may mắn thường thấy trong các câu chuyện cổ tích ngay trong thời hiện đại. Ngày nay có ai giàu mà không lấm lem đất cát?

Nhưng cái mặt khuất của nó với những người nông dân mất đất, với sự vỡ vụn những cộng đồng làng xã nảy sinh những tệ nạn và vấn nạn xã hội và sự bất công hoàn toàn ngược với những giá trị đạo lý và lý tưởng cách mạng xã hội đối với một bộ phận nông dân luôn bị đứng ngoài lề của những thành quả Đổi mới. Và cái tột cùng của nghịch lý từ Luật Đất đai này chính là sự lãng phí đối với tài nguyên nguồn cội của quốc gia bởi những dự án treo, những vùng đất màu mỡ trở nên hoang hoá, những bờ xôi ruộng mật bị bê tông hoá mà không được sử dụng, những dự án hạ tầng tiêu tiền mà không thu hồi được vốn và những đại gia bất động sản phá sản vì bội thực đất v.v...

Một sự cẩn trọng nhằm giải quyết một cách căn cơ trong ứng xử với đất đai từng là những bài học lịch sử vì nó có thể làm hưng thịnh hay suy tàn một chế độ. Tham gia thảo luận ở kỳ họp hôm nay, vấn đề chẳng mấy khác những điều đã cảnh báo từ mười năm trước. Và mười năm tới sẽ như thế nào tuỳ thuộc vào chính lần sửa đổi này. Đã có những tiếng nói nhắc nhở sự cẩn trọng đó vì sự giàu có nhờ đất đang phải trả giá đòi hỏi bằng chính sự quý trọng đối với đất đai như ông cha ta đã từng đối xử như với thần linh với Ông Địa ở vùng này, với Thổ Thần ở miền khác...

Bàn tới Luật Thực hành tiết kiệm và chống lãng phí, cho dù những dẫn chứng đưa ra mới chỉ động đến phần nổi của tảng băng lãng phí mà sự tổn hại của nó chắc chắn còn hơn cả tham nhũng. Tham nhũng có thể khu trú ở một số người có quyền và thất đức, nhưng lãng phí thì lại có thể phơi nhiễm vào bất kỳ ai và có thể tạo thành những tập tính mang tính xã hội. Có được một nếp sống tằn tiện lấy sự thanh bạch làm đạo đức là cả một quá trình tích luỹ lâu dài của ông cha ta nay đã gần như đã thất truyền trong nếp sống hiện đại.

Trị liệu căn tính lãng phí phải bắt đầu từ đầu não. Nói cách khác phải bắt đầu từ tính gương mẫu của những người lãnh đạo. Cụ Hồ là người nhận ra điều đó và luôn lấy lối sống của mình làm thông điệp chỉ để nhắc nhở rằng “dân ta còn nghèo, nước ta còn khó” và người lãnh đạo phải làm gương tiết kiệm tránh lãng phí cho dân noi theo.

Đóng góp vào dự án sửa đổi luật này, tôi chỉ đề nghị thêm một dòng mở đầu cho văn bản luật. Đó là lời nhắc nhở “Nước ta mới thoát nghèo và còn nguy cơ tái nghèo” nên phải coi luật này là trọng.

Có muôn vàn những dẫn chứng, nhưng có lẽ có một dẫn chứng dễ nhận thấy nhất dù vô cùng “nhạy cảm” vẫn phải nói đến. Đó là nước ta có một cơ chế chính trị khá hy hữu so với thiên hạ vì dường như là một quốc gia không có nguyên thủ. Điều này tôi đã có dịp phát biểu tại Quốc hội khi đến các cơ quan ngoại giao của ta ở nước ngoài không thấy treo ảnh ai ngoài Chủ tịch Hồ Chí Minh, nay chỉ là một lãnh tụ, một nguyên thủ tinh thần. Hay nói cách khác, nước ta lại có quá nhiều nguyên thủ nếu tính đến những người đứng đầu của những thành phần cấu thành Nhà nước, ngoài đảng cầm quyền là Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ. Mặt trận cũng nằm trong “bộ tứ” phải thưa gửi nhưng chưa bao giờ là nguyên thủ cả. Khách nước ngoài đến ta phải gặp tất cả mới đủ lễ. Và ta ra nước ngoài thì cả bốn vị đều phải đi chuyên cơ.

Đây là câu chuyện cần nói khi bàn đến Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí không chỉ vì những chí phí quá lớn mà nó mang lại những hiệu ứng không như mong muốn. Tôi đã có lần được đi những chuyến bằng chuyên cơ thì thấy thật vô lý khi một nước còn nghèo, còn cần đến viện trợ, kể cả viện trợ nhân đạo của thiên hạ, cần đến ODA mà xài sang hơn cả nước giàu.

Tôi đã từng được dự nghe một ông Phó Thủ tướng Italia khi tiếp Đoàn Quốc hội của ta đã có lời khen “toà lâu đài bay” hoành tráng của Việt Nam như một lời nhắc khéo bằng nét mặt ngạc nhiên vì sự sang trọng không hợp với hoàn cảnh quốc gia. Chúng ta đã chứng kiến việc ông vua của một nước không nghèo, một Thủ tướng nước tuy nhỏ mà rất giàu, những đại gia tỉ phú bạc thật sử dụng hàng không thương mại sang ta. Tại sao ta không học hỏi những cái hay của thiên hạ?

Giả dụ, các vị lãnh đạo ấy cân nhắc việc đi lại bằng những phương tiện tiết kiệm cho công quỹ thì các cấp dưới sẽ thôi dám sắm xe quá ngưỡng và những người công chức cấp thấp hơn sẵn sàng đi lại bằng những phương tiện bình dân hơn. Công quỹ không chỉ bớt được các khoản chi để dùng vào việc có ích mà giá trị con người trong quan hệ xã hội không chỉ vin vào cái vỏ ít nhiều “lấm lem đất cát”.

Nội dung viết ở đây chính là nội dung mà tôi tham gia thảo luận ở Quốc hội về hai bộ luật sửa đổi này, tuy nó không có cơ hội phát biểu thành lời trên diễn đàn nhưng nó đã được ghi thành văn tự gửi tới Quốc hội. Do vậy, nhà báo cứ yên tâm chuyển tải như một đóng góp vào kỳ họp quan trọng này.
VTK (st)
------------------
EMail từ Vũ Trọng Khải 9tiếp):
Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi: “Cần tiếp tục lấy ý kiến nhân dân…
To Van Truong
09:19 (20 phút trước)
tới AnhPhamNamNgaTuanLeTrungNguyenHoangLeHienNguyen,
PhamNguyenPhamNguyenPhamLeBuiVuDuyQuangPhanAnhBui...
Dear All
Mặc dù "Đảng cử - Dân bầu" nhưng vẫn có những vị đại biểu Quốc hội biết lắng nghe tiếng lòng của Dân, am hiểu luật pháp phát biểu về sửa Luật đất đai như đại biểu Lê Đình Khanh (Hải Dương) rất đáng trân trọng.
Năm ngoái, theo gợi ý của báo Người Lao Động, tôi “rủ rê” Anh Bẩy Nhị (nguyên Chủ tịch tỉnh An Giang), nhà sử học Dương Trung Quốc, Gs Đặng  Hùng Võ, PGS Vũ Trọng Khải, Ts Thang Văn Phúc (nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ) vv... cùng tham gia diễn đàn bàn về sửa luật đất đai.
Phát biểu của ông Lê Đình  Khanh  rất hợp lý và đúng với ý kiến trong bài viết của PGS Vũ Trọng Khải đã đăng trên diễn đàn  báo Người Lao Động “Sửa luật đất đai phải  dựa trên quan điểm và nguyên tắc  nào” ?  
Những người soạn thảo luật sửa đổi luật  đất đai cần phải hiểu rằng quyền tài sản là một loại hàng hóa nên phải mua bán chứ không có chuyện thu hồi. Ví dụ ở chợ Bến Thành hay Đồng Xuân người có kiot khi cần,  có quyền bán lại quyền thuê kiot (tức là quyền tài sản) có nghĩa là phải mua lại.
Khi Nhà nước không cho quyền mua bán, quyền sử dụng đất thì không có giá trị thị trường, do đó nói khung giá đất sát với thị trường chỉ là ngụy biện, rất “tù mù” chỉ làm lợi cho người có quyền thu hồi đất , mầm mống gây bất ổn xã hội bấy lâu nay. Quyết định của đa số đại biểu QH hoãn việc thông qua Luật sửa đổi đất đai, tiếp tục lấy ý kiến nhân dân  là rất sáng  suốt , hợp lòng dân.  
Tô Văn Trường
--- ForwardMessage -----
From: Anh Tuan Nguyen <anhtuanb2tlsg@gmail.com>
To:
Sent: Friday, 21 June 2013, 8:06
Subject FW 

Dân Việt - Đại biểu Lê Đình Khanh - Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Hải Dương, Ủy viên Uỷ ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội bày tỏ ý kiến về dự thảo Luật đất đai sửa đổi.

Đại biểu Khanh nói:
"Trong khi còn một số nội dung quan trọng có ý kiến trái chiều và chưa thông qua dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 thì cần tiếp tục lấy ý kiến nhân dân để xem xét thông qua sau khi đã thông qua Hiến pháp sửa đổi.
Đại biểu Lê Đình Khanh. Nguồn Internet
Vì nhiều đại biểu đã phát biểu và tôi là người phát biểu cuối cùng nên xin đi thẳng vào vấn đề:
Thứ nhất, về quyền sở hữu đất đai. Tôi nhất trí với dự thảo của luật, đất đai là sở hữu toàn dân, do nhà nước là đại diện chủ sở hữu và nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất. Vì nhất trí với điều này nên tôi đề nghị không sử dụng những từ như "giao đất", "cho thuê đất", "thu hồi đất", "người có đất", "tranh chấp đất đai", "định giá đất", "khung giá đất", "bảng giá đất", v.v... trong dự thảo. Vấn đề này tôi đã góp ý ở Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Tôi đề nghị, tất cả những cụm từ trên phải thêm từ "quyền sử dụng" trước những từ "đất", tránh làm nhầm lẫn là mua đất, bán đất hay thu đất mà chỉ là chuyển nhượng, thu hồi, giao quyền sử dụng đất cho tổ chức, cá nhân, hộ gia đình thôi.
Mặt khác, dự thảo luật ở Mục 3 Chương VIII có tên là "đấu giá quyền sử dụng đất", nhưng ở Mục 2 của chương này lại ghi là "giá đất", như vậy là không lôgic, không có giá đất mà chỉ có giá về quyền sử dụng đất. Tôi cho là những từ như vậy sử dụng trong luật là không chính xác.
Thứ hai, vì nhà nước chỉ giao quyền sử dụng đất mà quyền sử dụng đất là quyền tài sản, luật quy định được phép mua, bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nên tôi đề nghị như nhiều đại biểu trước tôi là nhà nước chỉ thu hồi quyền sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Đề nghị thực hiện trưng mua quyền sử dụng đất đối với người sở hữu đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm công khai, minh bạch và bình đẳng, hài hòa các lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp và người bị thu hồi quyền sử dụng đất.
Thứ ba, trách nhiệm nhà nước về quản lý đất đai, ở Điều 23. Tôi đề nghị bổ sung trách nhiệm, thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp một cách cụ thể vào điều này, đảm bảo tính thống nhất. Hiện điều này chỉ mới quy định trách nhiệm của Chính phủ và Bộ Tài nguyên môi trường là chưa đầy đủ.
Thứ tư, về nguyên tắc bồi thường quyền sử dụng đất khi nhà nước thu hồi, Điều 73 Khoản 1. Tôi đề nghị thay cụm từ "nếu không có đất hoặc nhà ở để bồi thường" bằng cụm từ "nếu không có nhu cầu nhận đất ở hoặc nhà ở". Sửa như vậy để làm rõ trách nhiệm của nhà nước và quyền lợi của người dân khi họ không còn đất ở hoặc nhà ở, nhà nước phải cho dân đăng ký nhu cầu đất ở, nhà ở để trước khi thu hồi đất, nhà tái định cư, để rồi thu hồi quyền sử dụng đất của dân, tránh tình trạng áp đặt trả bằng tiền, dành quyền chủ động cho cơ quan nhà nước, bắt dân phải tự lo, dẫn đến nhiều hệ lụy khác. Ở Khoản 3 điều này cũng cần quy định rõ thời hạn chi trả tiền bồi thường trong bao nhiêu ngày để nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tránh tình trạng như vừa qua vì giá đất thị trường tăng nhanh, nhà nước chậm trả dân dẫn đến khiếu kiện kéo dài.
Năm là về thời hạn giao quyền sử dụng đất nông nghiệp ở Điều 124, đa số đại biểu đồng tình với việc quy định của dự thảo là 50 năm, kéo dài thêm tối đa thêm 50 năm, nhưng tôi đề nghị giao không thời hạn tức là giao lâu dài, Nhà nước chỉ thu hồi khi người sử dụng đất vi phạm Luật đất đai. Việc quy định thời hạn 50 năm tuy có dài hơn 20 năm hiện nay nhưng vẫn gây thắc mắc, trông chờ sự thay đổi của người dân và đặc biệt khi tính giá quyền sử dụng đất, kể cả tính giá theo thời hạn còn lại hoặc không tính đến thời hạn còn lại cũng rất phức tạp. Cũng vì quy định có thời hạn tại Khoản 2, Điều 128, Mục a có ghi: hộ gia đình, cá nhân đã được nhà nước giao đất nông nghiệp trước ngày luật này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục sử dụng theo thời hạn giao đất còn lại. Vậy khi hết thời hạn giao đất còn lại thì sao và ngay năm 2013 này thì hầu hết diện tích đất nông nghiệp đã hết hời hạn.
Sáu là về tư vấn định giá quyền sử dụng đất, quy định trong luật tại Điều 113, 114 ít khả thi và dễ dẫn đến tiêu cực vì 5 năm mới có một lần xây dựng bảng giá, khung giá và phải được cơ quan nhà nước yêu cầu hoặc các bên liên quan có tranh chấp yêu cầu thì tổ chức tư vấn mới có việc làm. Điều này cũng dễ gây tiêu cực trong việc móc ngoặc khi được quyền chọn và thuê tư vấn.
Bảy là ý kiến cuối cùng, “Tôi đề nghị Luật đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, liên quan đến mọi cơ quan, tổ chức và trực tiếp đến đời sống của mọi người dân, nếu dự thảo sửa đổi không cân nhắc kỹ thì hậu quả sẽ khó lường. Vì vậy trong khi còn một số nội dung quan trọng có ý kiến trái chiều và chưa thông qua dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 thì cần tiếp tục lấy ý kiến nhân dân để xem xét thông qua sau khi đã thông qua Hiến pháp sửa đổi”.
Lam Giang (ghi)
--------------------------

From: Ly Vu [mailto:ly.daingu@gmail.com
Sent: Friday, June 21, 2013 6:09 AM
To: GS. Kh?i; Quang Tho Truong; tuan tran ba; GS. Tu?n
Subject: FYI

Bất công với nông dân và chuyện dài tạm trữ

Đăng bởi Hai Hoang Van vào Thứ sáu, ngày 21 tháng sáu năm 2013

Sự uất ức bất mãn của nông dân được mô tả là ngày càng chồng chất, mỗi năm nông sản xuất khẩu như lúa gạo, cà phê, thủy sản đem về hàng chục tỷ đô la, nhưng người nông dân hưởng lợi rất ít. Nam Nguyên trình bày vấn đề  này.

Tình hình tiêu thụ nông sản nói chung đã tồi tệ hơn rất nhiều trong nửa đầu 2013, Bộ trưởng NN-PTNT Cao Đức Phát ngày 13/6 nhìn nhận trước Quốc hội là thị trường tiêu thụ gặp bế tắc, lúa chín đầy đồng, tôm cá ê hề mà người dân không bán được.

Người nông dân thành phần chịu thiệt thòi nhiều nhất trong xã hội - AFP
Sống trên lưng người nông dân

Ông Ba một nông dân vùng tứ giác Long Xuyên nói với chúng tôi là người trồng lúa rất khó khăn, nông dân chẳng khác nào đang chết lần chết mòn, trong khi hai Tổng giám đốc của Tổng Công ty Lương thực miền Bắc và miền Nam lãnh lương 60 triệu tới 80 triệu/tháng. Ông Ba nói:

“Công ty Lương thực là của Nhà nước phải có trách nhiệm, anh làm không được, chính phủ phải xử lý như thế nào, thay người khác chứ người nông dân thì khổ mà anh ăn trên đầu cha nông dân sao được. Tiền lương đó cũng lấy từ nông dân ra chứ ở đâu mà có. Thanh tra chính phủ có nhìn nhận nên mới đưa thông tin đó ra. Từ chỗ đồng lương họ cao mình cũng biết về phía công ty họ có lời đấy, nhưng người nông dân họ lỗ, nếu công ty tư nhân thì không nói, anh làm lời kệ anh, nhưng là Nhà nước anh làm phải hài hòa lợi ích với mục tiêu cuối cùng phải là nông dân.”

Trò chuyện với chúng tôi, ông Trương Tâm, một nông dân khác ở đồng bằng sông Cửu Long cho rằng, chính phủ ở xa quá không hiểu thấu nỗi đau khổ của nông dân. Ông Tâm phát biểu:

“Cần nhất là Bộ trưởng Nông nghiệp ông Cao Đức Phát phải có cái tầm nhìn sâu về nông dân, phải hiểu cho nỗi khổ của nông dân từ đó lo cho nông dân, chứ ông đứng trên đài cao ông nói mà ông không làm.”

Khi 115 doanh nghiệp lúa gạo được Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) phân bổ chỉ tiêu, mua tạm trữ tổng cộng 1 triệu tấn gạo tương đương 2 triệu tấn lúa vụ hè thu 2013 ở đồng bằng song Cửu Long, thực tế giá lúa đã xuống quá thấp. Các doanh nghiệp này được Nhà nước cấp bù lãi suất vay vốn thực hiện tạm trữ.

Ngày 19/6, báo cáo của ngành nông nghiệp cho rằng giá lúa tươi tại ruộng đã nhích lên 200đ/kg  đạt mức 3.900đ-4.000đ/kg.  Nhưng tờ Dân Việt cùng ngày 19/6 đưa tin, nông dân Thoại Sơn An Giang như ngồi trên lửa, thương lái đặt cọc mua lúa tươi hạt tròn với giá 3.700đ/kg nhưng nay lúa chín rục vẫn không xuất hiện.

Sản lượng lúa hè thu đồng bằng sông Cửu Long năm 2013 ước đạt 9,3 triệu tấn bao gồm hè thu sớm, hè thu chính vụ và hè thu muộn, hiện nay các tỉnh đã thu hoạch xong khoảng  từ 60%-70% diện tích gieo cấy hơn 1,5 triệu héc-ta. Trong tháng 7 chỉ còn thu hoạch khoảng 700.000 ha

Mua tạm trữ kiểu gì?

Nông dân Trương Tâm ở đồng bằng sông Cửu Long nói với chúng tôi là  chỉ có An Giang thì mua tạm trữ đúng thời điểm, chứ Đồng Tháp, Hậu Giang, Cần Thơ thì việc hỗ trợ thị trường này không còn tác dụng bao nhiêu vì người dân đã làm gần xong và bán hết lúa.

“Chính sách mua tạm trữ mua phải làm từ đầu chứ kiểu này…lúa mình làm cách đây nửa tháng, Lúc đó giá mấy cũng phải bán, khi nông dân bán hết lúa rồi mới có lệnh mua tạm trữ từ 15/6. Thật ra tạm trữ thì giá cũng chỉ nhích 100đ-200đ không được bao nhiêu, lúa hạt dài xuất khẩu mà chỉ bán được 4.000đ-4.100đ/kg lúa tươi thì rất là đau cho nông dân, kiểu này làm sao mà lời được 30% đúng với chính sách Nhà nước.

Làm ruộng nếu nói bán lỗ thì là nói dối, nhưng chỉ lời mỏng lắm chỉ 5%-10%, mà lời vậy chết nông dân vì có đường nào ‘sanh sửa’, vật giá leo thang tất cả các mặt hàng tiêu dùng hàng ngày đâu có sụt đâu. Chuyện này như một điệp khúc lập đi lập lại hoài cuối cùng ông VFA hưởng lợi còn nông dân chịu khổ.”

Trả lời chúng tôi bà Phạm Chi Lan, chuyên gia kinh tế nguyên thành viên ban tư vấn của Thủ tướng Phan Văn Khải từ Hà Nội nhận định là, nông dân bị đối xử bất công, khi nhiều năm liền nông sản xuất khẩu đã chống lưng cho nền kinh tế.

“Chương trình mua tạm trữ lúa gạo thì thông thường tiền giao cho Tổng công ty được đứng ra làm, như vậy thì rút cuộc họ được hưởng lãi suất thấp hoặc lãi suất 0% của ngân hàng để mua tạm trữ lúa gạo. Nhưng mà nông dân thì cũng không được hưởng lợi bao nhiêu từ chương trình đó cả. Nông dân có bán được sản phẩm, nhưng ngay thái độ gần đây của Tổng công ty Lương thực đưa ra mang tính chất rất ép buộc với nông dân theo cách là bán thì bán không bán thì để lúa đấy cho bò ăn. Nói theo cách đó là không đếm xỉa đến yêu cầu Thủ tướng vẫn đặt ra là làm sao phải bảo đảm cho nông dân có lãi 30%. Như vậy làm sao có thể tạo ra động lực cho người nông dân chăm lo và tiếp tục sản xuất được.”

Khi đồng loạt việc tiêu thụ nông sản bị ách tắc, nhiều người nghĩ tới có sự trục trặc trong chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn. Để phát triển sản lượng đã không dễ mà chiến lược tiêu thụ còn khó hơn nhiều. Các chuyên gia thường nói sản xuất và tiêu thụ luôn gắn liền với nhau.

Thời kỳ người dân ăn bo bo, gạo mì nhập khẩu thay cơm trong những năm cuối thập niên 1970 đầu thập niên 1980 đã qua lâu rồi. Việt Nam thành công trong tự túc lương thực và dư thừa để xuất khẩu tới hơn 7 triệu tấn gạo mỗi năm. Nhưng đã tới lúc Việt Nam phải đổi mới một lần nữa, đặc biệt là trong việc hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn hướng tới phát triển bền vững và phúc lợi của 50 triệu nông dân và cư dân nông thôn.

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2013-06-20
-----------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét