Trang BVB1

Thứ Ba, 4 tháng 6, 2013

MỘT PHẦN ĐÔNG ÂU - NHÌN LẠI DẤU XƯA - Phần 1

          Nhân các sự kiện ngày 4-6

Hôm nay 4-6 không ch là ngày nhc nh v s c Thiên An Môn. Ngày 4-6-1989 cũng là ngày Ba Lan đã có cuc bu c (hoàn toàn t do, nhưng ch cho 35% s nghế ca H Vin) đánh du kết qu ca cuc đàm phán Bàn Tròn ti Ba Lan. Có rt nhiu bài hc mà chính quyn, nhng người đi lp và toàn dân có th hc được t kinh nghim hay và gi ca Ba Lan (và ca Hungary mà tôi đã có dp tp hp li cách đây 9 năm trong "Mt năm Hi ngh Diên Hng Hungary"). Anh Ch th đc bn rã băng ca 3 phiên ca mt hi tho năm 1999 ti Đi hc Michigan như món khai v và có th (NGUYỄN QUANG A - giới thiệu).

                                                                *          *           *
Hội nghị tại Đại học Michigan 07-10 tháng 4 năm 1999.
Bản gỡ băng các bài phát biểu tại Hội nghị
Gỡ băng: Kasia Kietlinska và Margarita Nafpaktitis
Dịch sang tiếng Anh: Kasia Kietlinska
Biên tập: Donna Parmelee
Chuyển sang dạng Web: Libby Larsen và Donna Parmelee
Lời cảm ơn
Việc gỡ băng hội nghị này được hỗ trợ một phần bởi tài trợ của Viện Hòa bình Hoa Kỳ (United States Institute of Peace) cho các ủy viên Quản trị của Đại học Michigan dành cho một dự án do Michael D. Kennedy và Brian A. Porter cai quản. Các ý kiến, những phát hiện và kết luận hoặc đề xuất trong bản ghi chép này là của các tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của Viện Hòa bình Hoa Kỳ.
Cảm ơn sự hỗ trợ của các nhà tài trợ hội nghị và đóng góp của Waldemar Chlebovski, Victor Litwinski, và Wojtek Straml, các phiên dịch đồng thời của hội nghị.
Thứ Tư 7 Tháng Tư, 1999
I.                    Ý NGHĨA CỦA BÀN TRÒN BA LAN  
- 20:00 - Chiếu phim: /Một video giới thiệu cho hội nghị do Piotr Bikont và Lawrence Weschler làm/.
                       * Các diễn giả (panelist):
· Wieslaw Chrzanowski, Giáo sư Luật tại Đại học Công giáo Lublin, nhà hoạt động Đoàn kết, nguyên thành viên của Hạ viện, Chủ tịch Liên minh Thiên Chúa giáo Quốc gia (1989-1994)
· Adam Michnik, Tổng biên tập báo Gazeta Wyborcza, nhà hoạt động Đoàn kết, nhà hoạt động nhân quyền, tham gia Bàn Tròn cho phe đối lập.
· Thủ tướng Mieczyslaw Rakowski, Tổng biên tập báo Polityka (1958-1982), ủy viên Ban chấp hành Trung ương (1975-1990) và Bí thư thứ nhất (1989-1990) của Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan, Thủ tướng Chính phủ (1988 - 89).
                     * Thảo luận và điều hành viên:
· Michael D. Kennedy, Phó Giáo sư Xã hội học, Đại học Michigan
(Văn bản chữ nghiêng được dịch từ tiếng Ba Lan)

                    * Điều hành viên (moderator):
 · Michael D. Kennedy, Phó Giáo sư Xã hội học, Đại học Michigan
"Sự sụp đổ được dàn xếp của Chế độ Cộng sản: Các Bàn Tròn Ba Lan năm 1989, Nhìn lại sau Mười năm - Communism's Negotiated Collapse: The Polish Round Table of 1989, Ten Years Later" là một hội nghị học thuật. Hội nghị này được thiết kế để làm rõ ý nghĩa và các bài ​​học của các cuộc đàm phán này trong năm 1989 mà đã mang lại thay đổi cơ bản nhưng hòa bình cho Ba Lan và đã tạo cảm hứng cho diễn biến tương tự khắp khu vực và trên toàn thế giới. Tôi chào đón các bạn vào buổi đầu của cuộc thăm dò kéo dài bốn ngày này. Tên tôi là Michael Kennedy và tôi là một trong những người tổ chức hội nghị này.
Thay mặt cho ban tổ chức từ Trung tâm Nghiên cứu Nga và Đông Âu tại Đại học Michigan, tôi muốn cảm ơn công khai một số người và đơn vị. Hiệu trưởng Lee Bollinger, Giám đốc Nancy Canter và các văn phòng của họ đã hỗ trợ ban đầu khiến cho hội nghị này có thể. Chúng tôi rất biết ơn họ và Giám đốc Canter đang có mặt ở đây, xin cảm ơn rất nhiều. Nhiều đơn vị khác của Đại học được liệt kê trong chương trình của các bạn cũng đã đóng góp, khiến cho đây thực sự là một sự kiện toàn Đại học. Tôi cũng muốn cảm ơn các nhà tài trợ công ty ở đây, American Airlines, hãng hàng không Ba Lan LOT, McKinley Associates / Ron and Eileen Weiser, Miller, Canfield, Paddock and Stone, P.L.C. và Video Studio Gdansk, Quỹ Earhart, và Quỹ Kosciuszko cũng như Bob Donia và Monika và Victor Markowicz cũng đã giúp làm cho sự kiện đặc biệt này có thể. Xin cảm ơn rất nhiều, cảm ơn tất cả.
Đây là một hội nghị học thuật không bình thường, bởi vì hầu hết các diễn giả của chúng tôi không phải là các học giả. Tất cả các diễn giả của chúng tôi là những người đã tham gia sâu vào chính trị, mặc dù từ các vị trí rất khác nhau trong phổ chính trị. Các học giả không phải là các nhà diễn giải duy nhất của lịch sử, và đặc biệt là hầu hết họ không phải là những người làm nên lịch sử. Những người chúng tôi mời dự hội nghị này đã làm nên lịch sử, và chúng tôi đã mời họ ở đây để họ có thể xem xét lại sự can dự của mình với các cải cách và sau đó sự sụp đổ của chế độ cộng sản ở Ba Lan, và rộng hơn ở Đông Âu và Liên Xô.
Tôi rất tiếc là, diễn giả đầu tiên của chúng tôi không thể có mặt với chúng ta tối nay. Thượng nghị sĩ Carl Levin, Thượng nghị cao niên của Bang Michigan, ông đã báo cho chúng tôi vào thứ hai rằng ông không thể đến. Tuy nhiên, ông đã gửi một lá thư, mà tôi muốn đọc cho các bạn. Ông viết:
"Tôi rất tiếc không thể tham dự hội nghị "Sự sụp đổ được dàn xếp của Chế độ cộng sản" của Đại học Michigan. Tôi sẽ cùng đi với Bộ trưởng Quốc phòng Bill Cohen trong một chuyến thăm tới trụ sở NATO ở Brussels, Bỉ, và căn cứ không quân Aviano ở Aviano, Ý. Có lẽ tất cả mọi người tham dự hội nghị này sẽ hiểu rằng thách thức NATO đang phải đối mặt ở Kosovo đến mức mà, với tư cách thành viên cao cấp của Ủy ban Quân vụ, tôi phải chấp nhận lời mời của Bộ trưởng Cohen để tham gia với ông. Những người Mỹ gốc Ba Lan và không gốc Ba Lan cũng như nhau trong nhiều thập kỷ đã giương cao ánh sáng tự do cho Ba Lan và Đông Âu thấy. Sau khi thiết quân luật được áp đặt ở Ba Lan và [Công đoàn] Đoàn kết bị cấm vào đầu những năm 80, giữa các hành động khác chính phủ Mỹ đã đình chỉ các đặc quyền hàng không dân dụng của Ba Lan tại Hoa Kỳ, từ chối gia hạn hạn mức tín dụng xuất nhập khẩu cho chính phủ Ba Lan, từ chối việc nhận Ba Lan trở lại Quỹ Tiền tệ Quốc tế, đình chỉ Tình trạng Tối huệ quốc của Ba Lan. Chỉ khi Lech Walesa và các nhà cải cách ủng hộ việc tái can dự thì chúng tôi mới đã làm như vậy, và sau đó năm 1987, Hạ viện đã trực tiếp dành tiền cho Đoàn kết. Tháng Hai năm 1988, tôi đã vinh dự gặp các nhà lãnh đạo Ba Lan ở Warsaw và Gdansk, bao gồm Mieczyslaw Rakowski, Lech Walesa, Jacek Kuron, và Adam Michnik. Cuộc viếng mộ cha Popieluszko đã khiến tôi hết sức xúc động. Bây giờ, thật kỳ diệu Ba Lan tự do, độc lập và là một phần của NATO. Một vài tuần trước, tại Thư viện Truman ở thành phố Independence [bang Missouri, quê của Tổng thống Truman], khi Ba Lan, Hungary và Cộng hòa Séc gửi văn kiện gia nhập NATO của họ, Bộ trưởng Ngoại giao Geremek đã nói như sau: “Buổi lễ hôm nay xác nhận rằng Liên minh là một cộng đồng các giá trị. Sự thành công của NATO trong năm mươi năm qua đã dựa trên các nguyên tắc dân chủ, dân quyền và quyền tự do, được chia sẻ bởi tất cả các thành viên của nó. Các quốc gia tham gia cộng đồng này ngày hôm nay đã bị từ chối những giá trị đó cho đến năm 1989. Trên các đường phố của Budapest năm 1956, của Praha năm 1968, và của Gdansk năm 1970 và 1981, họ đã phải trả một cái giá đắt. Họ đã chứng tỏ các chứng chỉ dân chủ của mình mà cho họ quyền được có mặt ở đây ngày hôm nay." Hãy chuyển lời chúc mừng của tôi đến những người Ba Lan tham dự hội nghị về việc gia nhập gia nhập NATO của họ, và lòng biết ơn sâu sắc của tôi vì sự ủng hộ kiên định của Ba Lan đối với những hành động của NATO liên quan đến Kosovo. Một trong những cân nhắc chính của tôi trong thời gian đánh giá của Thượng viện Hoa Kỳ về vấn đề mở rộng NATO năm ngoái đã là, liệu Ba Lan, Hungary và Cộng hòa Séc có ở vị thế để đẩy mạnh các nguyên tắc cơ bản của NATO về dân chủ, tự do cá nhân và pháp trị hay không. Các đồng nghiệp Thượng viện của tôi và tôi đã quyết định với một đa số áp đảo rằng ba nước này ở vị thế như vậy. Tôi tự hào rằng ngày nay Hoa Kỳ và Ba Lan kiên định đứng lên bảo vệ quyền của người Albania ở Kosovo để thực hiện những nguyên tắc này. Lời chúc tốt đẹp nhất của tôi cho hội nghị thành công. Các bạn và đồng nghiệp của các bạn đã thực hiện bước giàu trí tưởng tượng nhất trong phân tích các sự kiện lịch sử của chỉ vài năm trước đây, các sự kiện mang tính lịch sử và có tầm quan trọng siêu việt đối với quyền tự do của người Ba Lan và người dân ở khắp mọi nơi. Trân trọng, Carl Levin."
Những tiến triển lịch sử này mà tạo khung bức thư của Thượng nghị sĩ Levin, một mặt, việc mở rộng của NATO, và mặt khác, sự tan rã của Đông Nam Âu, có lẽ có thể được xem như cái nền đương đại cho một số câu hỏi mà chúng ta thảo luận trong hội nghị này. Chắc chắn, hội nghị của chúng ta đựa trên tiền đề về ý tưởng rằng biến đổi căn bản có thể được thực hiện không chỉ bằng bạo lực, mà cả bằng cách hòa bình nữa. Nhưng tôi phải nhấn mạnh rằng đây không phải là một cuộc hội nghị về chính trị đương đại ở Ba Lan hay Nam Tư. Nó là về những diễn biến bất ngờ của năm 1989.
Tôi sử dụng từ "bất ngờ-contingency" để nhấn mạnh một trong những nguyên tắc tổ chức hội nghị này. Ai có thể tưởng tượng trong năm 1979 rằng vào năm 1989 cộng sản sẽ sụp đổ ở Đông Trung Âu? Ai có thể tưởng tượng trong năm 1989 rằng bạo lực, như chúng ta đang thấy ở Đông Nam Âu, sẽ áp đảo khu vực trong mười năm tới? Và những gì trong tương lai? Sự bất ngờ có nghĩa là chúng ta không thể nghĩ về tương lai như một sự kéo dài trơn tru của hiện tại. Các sự kiện có thể biến đổi cấu trúc lâu bền nhất, và các sự kiện có thể được tạo ra nhờ hành động chiến lược. Sự lựa chọn của người dân có thể định hình các sự kiện, và chúng, lần lượt, có thể chuyển hướng tiến trình lịch sử.
Các cuộc đàm phán thuộc mọi loại, và đặc biệt là các cuộc được thực hiện tại Bàn Tròn Ba Lan năm 1989, minh họa tầm quan trọng của sự lựa chọn và chiến lược trong việc tạo ra các kết quả quan trọng. Sự lựa chọn của chính quyền cộng sản và Đoàn kết để đàm phán trong năm 1988 là một trong những quyết định có hệ quả quan trọng nhất mà người ta có thể tưởng tượng cho lịch sử thế giới. Sự bất ngờ đã không dừng ở đó. Các cuộc đàm phán đã có thể sụp đổ, và chắc chắn ít người đã dự đoán rằng các cuộc bầu cử tháng 6-1989 sẽ tạo ra chiến thắng áp đảo cho Đoàn kết, và sự thất bại đến vậy cho chính quyền cộng sản. Và trong mùa hè năm 1989, hầu hết mọi người đều cho rằng Ba Lan sẽ vẫn bị các chế độ cộng sản bao quanh. Thay vào đó, Ba Lan đã chứng tỏ là tia lửa cho sự sụp đổ được dàn xếp của các chế độ cộng sản trong khu vực.
Hội nghị này bắt đầu với ý tưởng rằng sự lựa chọn của người dân trong một số trường hợp, tất nhiên, có thể chứng tỏ có hệ quả quan trọng đối với lịch sử thế giới. Chúng tôi muốn tập trung vào những sự lựa chọn và những chiến lược đã dẫn đến sự sụp đổ được thương lượng của chủ nghĩa cộng sản. Nhưng khi nào và làm thế nào mà người Ba Lan, hoặc ít nhất một số người Ba Lan, có được ý tưởng rằng họ có thể đàm phán sự biến đổi cơ bản của chủ nghĩa cộng sản? Câu trả lời cho câu hỏi đó là không đơn giản chút nào.
Nhiều người trong số các bạn đã thấy rõ sự phức tạp của các vấn đề xung quanh câu hỏi có vẻ vô hại đó. Những người ít quen với lịch sử và chính trị Ba Lan trong số các bạn có thể không nhận ra câu trả lời và các tiền đề của câu hỏi là phức tạp đến thế nào. Bất kỳ tường thuật nào về sự sụp đổ của chế độ cộng sản do đàm phán đều phải gắn kết mật thiết với câu chuyện (narrative) lớn của lịch sử. Có nhiều câu chuyện để kể và rõ ràng chúng ta chẳng thể tìm được cách để kể tất cả chúng. Tuy vậy, chúng tôi đã lắp ghép hai cách để các bạn thấy rõ các sự kiện lịch sử đó.
Craig Borum đồng nghiệp của tôi từ trường Kiến trúc, một nhóm sinh viên, và các thành viên của Ban tổ chức đã tập hợp một cuộc triển lãm để bạn có thể xem tại tầng tư của [tòa nhà] Rackham. Triển lãm đó mang tên "Tạo một không gian cho lịch sử." Triển lãm đó thách thức bạn để nhận ra các diễn ngôn khác nhau, các câu chuyện khác nhau, thông qua đó truyện về Bàn Tròn có thể được kể. Chúng tôi mời các bạn xem cuộc triển lãm này và chia sẻ với chúng tôi suy nghĩ của các bạn tại một trong các bàn ở phòng đó. Hãy xem brochure để biết giờ mở cửa. Chúng tôi cũng cho bạn một giới thiệu lịch sử phần nào tiện lợi hơn, có thể độc đáo hơn và chắc chắn hiện thời hơn.
Ngay bây giờ chúng tôi rất vui để có thể chia sẻ với các bạn một bộ phim hai mươi sáu phút của Piotr Bikont và Lawrence Weschler về nguồn gốc lịch sử của các cuộc đàm phán lịch sử. Đây là một bộ phim rất đặc biệt, vì nó đã không được trình chiếu trước công chúng. Nó đã được thực hiện hoàn toàn cho hội nghị này. Và vì vậy tôi chào đón các bạn xem bộ phim này.
CHIẾU PHIM
Moderator:
Michael D. Kennedy, Phó Giáo sư Xã hội học, Đại học Michigan
Tôi muốn cảm ơn Piotr Bikont và Lawrence Weschler, và Video Studio Gdansk rất nhiều vì đã làm bộ phim này đặc biệt cho hội nghị của chúng ta. Tôi nghĩ một trong những điều mà bộ phim này cho thấy, là có những câu chuyện kể rõ ràng Bàn Tròn là về những gì, nó đã được thực hiện ra sao, nhưng có nhiều câu chuyện khác nhau có thể được kể không chỉ về Bàn Tròn đã được thực hiện thế nào mà cả ý nghĩa của quyết định được thương thảo là gì. Các diễn giả mà chúng ta thấy ở đây tối nay sẽ trình bày những diễn giải khả dĩ khác về các cuộc đàm phán Bàn Tròn này, nhưng trước khi chuyển sang giới thiệu họ một cách thích hợp, hãy để tôi nói vài lời và trả lời một trong những câu hỏi mà, nếu tôi có thể nói, đã từng đeo đẳng tôi từ khi chúng tôi bắt đầu dự án này.
Tại sao Đại học Michigan lại tổ chức một hội nghị về đàm phán Bàn Tròn Ba Lan năm 1989? Đó là câu hỏi mà các phương tiện truyền thông Ba Lan, các công dân Ba Lan và người Mỹ gốc Ba Lan xa lạ với truyền thống của Đại học Michigan thường đặt ra cho tôi. Các đồng nghiệp và sinh viên của tôi ở trường Đại học này không đặt ra câu hỏi đó. Họ quen với vai trò trung tâm của nghiên cứu Ba Lan và chương trình ở đây. Nhiều bộ môn, trường và tổ chức của chúng tôi có quan hệ thường xuyên và đáng kể với các học giả, các tổ chức, và xã hội Ba Lan. Chúng tôi cũng đã có truyền thống phong phú về các bài giảng Copernicus mà chúng tôi dựa vào. Các giảng viên đã bao gồm các nhân vật nổi tiếng như Leszek Kolakowski, Czeslaw Milosz, Stanislaw Baranczak, Zbigniew Brzezinski, Jacek Kuron, Krzysztof Penderecki, Henryk Górecki, Krzysztof Zanussi, Ryszard Kapuscinski, và Ewa Hoffman. Nhưng trong năm 1999 tại sao lại chú tâm vào Bàn Tròn Ba Lan năm 1989?
Chúng tôi đã hình dung về hội nghị này rồi vào mùa hè năm 1997. Vào lúc đó, những dự tính về kỷ niệm mười năm sự sụp đổ của chế độ cộng sản đã được chuẩn bị sẵn sàng. Thường xuyên nhất chúng bị làm sai lạc đi trong hình ảnh của sự sụp đổ của Bức tường Berlin. Hình ảnh là khá quan trọng vì chúng ta hiểu 1989 là năm mà những người Đức báo hiệu mong muốn của họ để trở thành một dân tộc, và những sự chia rẽ chiến tranh lạnh của châu Âu có thể được khắc phục. Mà hình ảnh đó cũng khá thích hợp vì hệ thống cộng sản bị khủng hoảng và đã sụp đổ khá dễ dàng ở Tiệp Khắc và Đông Đức. Nhưng năm 1989 đã không bắt đầu vào tháng Mười. Những thay đổi đã diễn ra trong năm 1989 ở cả Ba Lan và Hungary là then chốt đối với những biến đổi tiếp theo của phần còn lại của thế giới cộng sản. Các cuộc cách mạng được thương lượng của họ đã dẫn đến sự sụp đổ được dàn xếp của thế giới cộng sản trong khu vực. Đặc biệt, cuộc đấu tranh và đổi mới chính trị của Ba Lan đã đặt nền móng cho sự thay đổi. Bàn Tròn đã trở thành một mô hình chuyển đổi, được noi theo và được trau chuốt ở Hungary, Đông Đức, Tiệp Khắc, Bulgaria, và ở xa như Mông Cổ.
Nếu chúng ta muốn hiểu quá trình, mà thông qua đó chế độ cộng sản sụp đổ một cách hòa bình, thì chúng ta phải hiểu các điều kiện, những sự bất ngờ và các hậu quả của các cuộc đàm phán Bàn Tròn Ba Lan.
Chúng ta có thể mời, như một số bài báo đã đề nghị, chúng ta có thể mời một danh sách học giả quen thuộc của những người tham gia để trả lời câu hỏi. Và quả thật, có nhiều công trình học thuật đầy ấn tượng đã dành cho chủ đề này, và nhiều học giả những người đã tạo ra các công trình này là những khán giả ở đây. Vài trong số họ sẽ là moderator, một vài trong số họ, trên thực tế, là những người tham gia hội nghị này. Nhưng đối với sự kiện này, chúng tôi muốn vượt qua các hệ thuyết (paradigm) học thuật về những chuyển đổi được điều đình hoặc về việc giải quyết xung đột và bước vào luồng xoáy can dự chính trị. Chúng tôi muốn chú tâm vào trí tưởng tượng chính trị của bản thân những người tham gia và quan niệm của họ về vai trò và trách nhiệm của mình trước Ba Lan, các cử tri, và lịch sử. Trong ý nghĩa này, chúng tôi tìm cách đưa sự trải nghiệm và sự thấu hiểu của những người đã làm thay đổi thế giới vào sự làm sáng tỏ của cuộc thảo luận cởi mở và học thuật.
Tất nhiên có nhiều diễn đàn, nơi các chính trị gia có thể đưa ra các diễn giải riêng của họ về lịch sử nhưng các giải thích đó thường bị gắn với chính trị thường ngày. Ngay cả sự giải thích về năm 1989 trong năm 1999 đôi khi dễ hiểu hơn trong chính trị của tương lai, hơn là dưới dạng của các ràng buộc và các tùy chọn của quá khứ. Chúng tôi đã cố gắng làm một cái gì đó khác ở đây.
Trong thư mời gửi cho những người tham gia hội nghị, chúng tôi đã yêu cầu họ tham dự một sự kiện quốc tế, nơi các bài thuyết trình được trình bày, các điều phối viên đặt câu hỏi, và tất cả mọi người lắng nghe với sự quan tâm và sự tôn trọng đặc trưng cho một hội nghị học thuật. Chúng tôi tin một sáng kiến như vậy, nơi những người làm nên lịch sử thảo luận sự đóng góp của họ trong khung cảnh của một trường đại học toàn cầu, sẽ tạo cho chúng ta một cơ hội để khám phá không chỉ những rắc rối của những sự biến đổi và chính trị Ba Lan, mà cả ý nghĩa rộng lớn hơn của nó đối với lịch sử, và tương lai, của thế giới này.
Chúng tôi đã mời những người trong các bạn, những người đã đăng ký tham dự hội nghị này gửi cho chúng tôi những câu hỏi mà họ muốn thấy chương trình này đề cập đến. Chúng tôi đã xem xét những câu hỏi đã được gửi sớm và, trong các phiên khác, chúng tôi sẽ thu thập các câu hỏi tại chỗ để tập hợp và cung cấp cho các điều phối viên của chúng tôi. Tối nay, do thời gian đã muộn, do sự mệt mỏi của các vị khách của chúng ta mới đến từ Ba Lan, và sự đầy của chương trình, chúng ta sẽ không có khả năng tổ chức thảo luận trong hội trường này.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng tham vọng của chúng tôi ở đây không phải là để tán dương hoặc đổ lỗi cho những người đã thực hiện Bàn Tròn, đúng hơn tham vọng của chúng tôi là để hiểu rõ hơn hoàn cảnh, những sự bất ngờ, và các hậu quả của các lựa chọn chính trị đã dẫn đến Bàn Tròn và sự sụp đổ được thương lượng của chế độ cộng sản. Nhưng còn nhiều hơn thế. Một trong những thách thức trí tuệ lớn nhất trước thế giới là để hiểu rõ hơn về làm thế nào mà các cựu thù có thể ngồi lại với nhau bên một chiếc bàn và thương lượng những thay đổi đảm bảo không chỉ một quá trình chuyển đổi hòa bình mà cả một tương lai ổn định và thịnh vượng cho tất cả mọi người liên quan. Cha Józef Tischner, do tình trạng bệnh tật đã không thể có mặt với chúng ta ngày hôm nay, đã nói về Bàn Tròn, và tôi sẽ đọc bằng tiếng Ba Lan để giữ tiếng nói của cha: "Dla mnie juz Okragly Stól byl wyrazem naszej wlasnej politycznej twórczosci, podobnie jak Solidarnosc. Solidarnosc miala ideowe zaplecze chrzescijanstwa, a Okragly Stól mial zaplecze w Solidarnosci. Te dwie koncepcje Solidarnosc i Okragly Stól wcielaly bardzo polska droge pokojowego przechodzenia od swiata rewolucji do swiata pokoju." (Dịch: "Đối với tôi Bàn Tròn đã là một biểu hiện của sự sáng tạo chính trị của riêng chúng ta, hệt như Đoàn kết [Hiệp thông][1] đã là. Hiệp thông về mặt tư tưởng đã dựa trên Kitô giáo, và Bàn Tròn về tư tưởng đã dựa trên sự Hiệp thông. Hai khái niệm này, Hiệp thông và Bàn Tròn, đã thể hiện một lộ trình rất Ba Lan của quá trình chuyển đổi từ thế giới của cách mạng sang thế giới của hòa bình").
Khi tôi đọc đoạn này trong cuốn Między panem a plebanem,[2] tôi đã thật sự cảm động và bị lôi cuốn để tự hỏi liệu con đường Ba Lan này đến một thế giới hòa bình có thể không là một con đường phổ quát khả dĩ, mà sự khai thác nó có thể mang lợi cho tất cả những ai học hỏi từ nó, hay không. Nhưng sau đó tôi cũng đã nhận ra rằng nếu không có sự đánh giá sâu rộng và phê phán về các cuộc đàm phán này trong bầu không khí được một môi trường học thuật, như hội nghị này, cho phép, thì những bài học thực tế có thể chẳng bao giờ được học, và vì lý do đó tôi đặc biệt biết ơn ba người đàn ông nổi bật của nền chính trị Ba Lan, những người vào năm 1989 đã đại diện cho một số đánh giá khác nhau rất quan trọng về các khả năng và tầm quan trọng của Bàn Tròn Ba Lan.
Chúng tôi đã mời mỗi người trong số họ trả lời câu hỏi sau: "Các sử gia tương lai sẽ định vị các sự kiện này xung quanh cuộc đàm phán Bàn Tròn ở đâu trong lịch sử Ba Lan và thế giới?" Một câu hỏi dễ, không nghi ngờ gì.
Tuy nhiên, chúng tôi đã rất khó quyết định về loại thứ tự nào mà các diễn giả tối nay sẽ phát biểu. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng vì tôi đã là người đầu tiên, thứ tự dễ nhất đơn giản là từ trẻ nhất đến già nhất. Vì thế, nếu các bạn chưa biết, thứ hai sẽ là Mieczyslaw Rakowski, thứ ba sẽ là Wieslaw Chrzanowski, và đầu tiên là Adam Michnik. Hãy để tôi nói một vài lời về ông.
Ira Katznelson, một trong những nhà lý luận chính trị hàng đầu của Mỹ, đã mô tả Adam Michnik như "được cho là biểu tượng trí tuệ dân chủ của Đông Âu." Adam Michnik đã gắn với một số biến đổi gây ấn tượng nhất của lịch sử Ba Lan trong ba thập kỷ qua, trong việc ủng hộ quyền tự do ngôn luận năm 1968, để bảo vệ người lao động cuối những năm 1970, trong sự hình thành Đoàn kết vào năm 1980, và, tất nhiên, trong tiến triển của các cuộc đàm phán Bàn Tròn năm 1989. Hiện nay ông là tổng biên tập của tờ báo lưu hành rộng rãi nhất Ba Lan, Gazeta Wyborcza. Thưa quý vị, Adam Michnik.
Panellist (diễn giả):
Adam Michnik, Tổng biên tập báo Gazeta Wyborcza, nhà hoạt động Đoàn kết, nhà hoạt động nhân quyền, tham gia vào Bàn Tròn cho phe đối lập
Thưa các quý bà và các quý ông, cuộc tranh luận về Bàn Tròn là tranh luận đi cùng với tất cả các cuộc xung đột của thời đại chúng ta: dân tộc, tôn giáo và xã hội. Đây là cùng cách, mà những người Anh và Pháp ủng hộ và phản đối các vụ hành quyết các vị vua đã thảo luận, đây là cách mà các đối thủ Tây Ban Nha và Argentina của chế độ độc tài đã thảo luận, đây là cách mà các đối thủ da trắng và da đen của chế độ Apartheid đã thảo luận. Đây, cuối cùng, là cuộc tranh luận giữa những người IsraelPalestine ủng hộ và phê phán các cuộc đàm phán hòa bình. Những người bênh vực phương pháp hòa bình để giải quyết xung đột đã luôn đối mặt với những câu hỏi và các lời buộc tội tương tự. Làm thế nào người ta có thể nghĩ về việc giao kết một hiệp ước với kẻ thù? Làm thế nào người ta có thể tìm kiếm một sự thỏa hiệp với ai đó, kẻ phải bị trừng phạt vì những tội ác của hắn? Và thường các câu trả lời được đưa ra là tương tự. Bạn phải chấp nhận thỏa thuận và tìm kiếm sự thỏa hiệp với kẻ thù, chính xác bởi vì hắn là một kẻ thù. Không cần phải thương lượng với bạn bè. Lựa chọn thực sự ở đây là gì? Hoặc là một cuộc chiến tranh, dễ kích động, và có thể kéo rất dài, hoặc một con đường khó khăn hướng tới hòa bình dựa trên sự thỏa hiệp. Nhưng một sự thỏa hiệp luôn để lại một cái gì đó đáng mong muốn. Để có thể sống trong hòa bình và tự do, nhất thiết phải thay ngôn ngữ chiến tranh bằng ngôn ngữ hòa bình, và đấy là nỗ lực mà Ba Lan đã tiến hành mười năm trước. [Công đoàn] Đoàn kết bí mật bị chia rẽ; đã có [phe] cánh khăng khăng chống lại bất luận cuộc đàm nào, và có một cánh khác háo hức muốn đàm phán với cộng sản, vô điều kiện. Khi nhớ lại quan điểm của riêng mình, tôi đã có ý phản đối cả hai. Tôi đã hết sức ủng hộ phe đối lập cứng rắn trong bí mật, vào lúc đó, nhằm đạt được một sự thỏa hiệp tử tế cho tương lai. Nhiều người trong số các chính trị gia hàng đầu của Đoàn kết đã suy luận theo cùng cách trong thời bí mật: Lech Walesa, Zbigniew Bujak, Mazowiecki, Geremek, Jacek Kuron, Frasyniuk, và cả Jaroslaw và Lech Kaczynski nữa, tất cả những người đó về sau đã theo đuổi những con đường khác nhau của họ. Tôi thường nghe những lời buộc tội rằng do chọn logic thỏa hiệp, tôi đã phản bội tiểu sử của chính mình. Đó là lý do tại sao tôi muốn bắt đầu bình luận về trường hợp của riêng tôi. Khi còn trong nhà tù ở Gdansk, tôi đã viết một cuốn sách nhỏ Takie czasy (Những lúc như vậy), nó được đưa lậu ra từ nhà tù và được công bố trên báo chí bí mật, và đó là những gì tôi đã viết: "Công đoàn Đoàn kết phải từ chối triết lý ‘được ăn cả ngã về không’, cả liên quan đến Liên Xô và những người cộng sản Ba Lan, cả liên quan đến những thay đổi từng phần và chủ nghĩa đa nguyên mà phải được tạo ra trong đời sống dân sự. Bởi vì tôi xác định một cách không lay chuyển rằng trừ khi tình hình quốc tế thay đổi, sự thỏa hiệp ở Ba Lan, với cải cách dân chủ như hệ quả nảy sinh từ sự thỏa hiệp, không chỉ là một triển vọng thực tế, mà thực sự đó là giải pháp sẵn có duy nhất. Đối với những người cộng sản, nó sẽ là một cách để đạt được tính hợp pháp, còn đối với chúng ta nó sẽ là một con đường hướng tới cuộc sống tử tế. Theo đuổi sự thỏa hiệp và những thay đổi tiến hóa, chúng ta tính đến một tình huống trong đó những người cộng sản sẽ cúi đầu chịu áp lực xã hội và chí ít sẽ đồng ý các cuộc bầu cử nửa tự do đối với chính quyền địa phương và Sejm (Hạ viện). Và những người cộng sản sẽ làm điều đó không phải vì họ yêu dân chủ, mà vì sự suy tính thiệt hơn. Cải cách như vậy đối với họ sẽ là thuận lợi hơn việc tiếp tục cuộc chiến tranh lạnh dân sự liên miên." Và tôi cũng đã viết điều này, trong tập sách này, tại nhà tù, vào năm 85, trong khi chờ bản án của mình: "Đây có thể là một giải pháp: tạo khả năng cho xã hội Ba Lan để thực sự bầu ba mươi phần trăm đại diện của mình vào Hạ viện. Thế nhưng những người cùng ba mươi phần trăm trên một danh sách bỏ phiếu bầu cử, bên cạnh Siwak[3] và Urban[4], chỉ có thể bị mất quyền lực của họ."[5] Tôi xin lỗi vì trích dẫn bản thân mình. Những ngày này ở nước tôi, tuy vậy, có rất nhiều chính trị gia bị mất trí nhớ hoặc bịa ra các tiểu sử mới mà là có ích để đưa ra các lý lẽ tôi trích dẫn bây giờ. Trong những cuộc tranh luận về Bàn Tròn, mà có rất nhiều ở Ba Lan, có một luận điệu liên tục về sự ác ý, sự vu khống, phản bội, âm mưu, thao túng. Tôi cảm thấy rằng vì lợi ích ngắn hạn, có xu hướng nào đó để xuyên tạc lịch sử Ba Lan hiện đại. Những lời bóng gió như vậy khiến cho đối thoại là không thể. Chúng giúp tạo ra một hình ảnh về một kẻ phản bội và kẻ thù, hơn là hình ảnh của một nhà luận chiến và nhà phê bình. Và cuối cùng, cái thực sự là một thành công vĩ đại, không thể dự đoán của Ba Lan, sự trốn thoát không đổ máu của nó khỏi chủ nghĩa cộng sản, bây giờ lại thường được trình bày như một sự bất hạnh cho đất nước chúng tôi và như nguồn của các vấn đề hiện tại của nó. Tôi cho rằng loại chép sử sai lạc này gây ra chính sách sai. Có hai huyền thoại đi kèm với cuộc tranh luận về Bàn Tròn. Huyền thoại đầu tiên, được truyền bá bởi các chính trị gia và các nhà bình luận gắn với đảng cộng sản trước đây, nói về lòng nhân từ của các lãnh đạo đảng, những người đơn giản đã chuyển quyền lực cho phe đối lập ngay khi trở nên có thể. Loại thứ hai nói về âm mưu của "bọn đỏ với bọn hồng." Tuy nhiên, đã không có lòng nhân từ cũng chẳng có âm mưu. Mục tiêu chiến lược của đảng cộng sản đã là để có được một tính chính đáng mới cho sự cai trị cộng sản ở Ba Lan và nước ngoài, và việc cho phép hình thức nào đó của đối lập được hợp pháp hóa đã là cái giá cho điều đó. Mặt khác, các mục tiêu chiến lược của phe đối lập Đoàn kết đã là hợp pháp hoá Đoàn kết và phát động quá trình chuyển đổi dân chủ. Sau nhiều năm đàn áp, vào năm 88 đã trở nên rõ ràng rằng chiến lược thiết quân luật đã thất bại. Trong tháng Năm và tháng Tám, một làn sóng đình công đã chứng tỏ rằng Đoàn kết vẫn còn là một yếu tố lâu bền trên chính trường Ba Lan và rằng cần thiết để nói chuyện với Đoàn Kết. Mặt khác, dưới chế độ thiết quân luật, Đoàn kết là một cộng đồng hơn là một nghiệp đoàn lao động, một huyền thoại hơn là một phong trào chính trị được thể chế hóa. Sức mạnh của nó đã là logo (biểu tượng) của nó, mà thực sự đã ảnh hưởng đến trí nhớ tập thể xã hội, và lãnh đạo của nó, Lech Walesa, người được giải Nobel Hòa bình. Nhưng thật ra, trong nhiều cơ sở làm việc, và trong cấu trúc tổ chức bí mật thật của nó, Đoàn kết đã yếu. Đúng là so với các cộng đồng bất đồng chính kiến tại các nước khác của khối phía đông trước kia, Đoàn kết có vẻ hùng mạnh. Tuy nhiên, chúng tôi biết rằng nghiệp đoàn nhiều nhiều triệu người của năm 81 đã bị giảm chỉ còn một mẩu sức mạnh trước đó của nó. Tuy nhiên, Đoàn kết vẫn đã giữ được một số lá bài chủ chính yếu của mình. Sự hỗ trợ của công luận ở phương Tây. Đoàn kết đã được Đức Giáo Hoàng, John Paul II ủng hộ một cách kín đáo. Một số giám mục đã ủng hộ mạnh mẽ Đoàn kết. Bên cạnh đó, có logic của sự thay đổi bên trong Liên Xô, tính không hiệu quả chính trị và kinh tế của nó. Cuối cùng, Đoàn kết cũng có thể tính đến sự chán ghét nhóm Jaruzelski vì việc tái lập dạng nào đó của hình thức thiết quân luật. Có vẻ như sau vụ ngày 13 tháng 12 năm 81, các nhà lãnh đạo cộng sản Ba Lan đã cố gắng để thi hành, để đưa vào cuộc sống, một loại nào đó của kịch bản Kádár[6]: chiến lược ổn định hóa thông qua đàn áp, và hiện đại hóa thông qua những cải cách hạn chế của hệ thống. Chiến lược của Đoàn kết hoạt động bí mật tại thời điểm đó rất đơn giản: để sống sót qua các cuộc đàn áp và chờ hoàn cảnh chính trị tốt hơn. Hoàn cảnh mới này đã đến với Gorbachev. Những thay đổi ở Liên Xô đã tạo ra một tình huống mới, mà trong đó Bàn Tròn đã trở thành có thể. Sự thỏa hiệp đó, như thường lệ, đã là kết quả của sự yếu tương đối của cả hai bên. Các nhà chức trách đã quá yếu để chà đạp lên chúng tôi, và chúng tôi đã quá yếu để lật đổ chính quyền. Và từ hai điểm yếu đó một cơ hội mới phát sinh cho một lời giải thỏa hiệp mới. Và có vẻ như sự sẵn sàng của hai người, một là Lech Walesa và người kia là Wojciech Jaruzelski, đã đóng vai trò chính. Hai chính trị gia này có lẽ đã là những người duy nhất có đủ uy tín trong cộng đồng chính trị của họ. Không ai từ phía Đoàn kết đã có thể liều với các cuộc đàm phán như vậy mà không có Walesa hoặc chống lại Walesa, bởi vì việc đó đã có thể bị coi là một sự phản bội. Và tôi nghĩ ở phía bên kia, thỏa hiệp như vậy sẽ không có đủ hiệu lực nếu không được Jaruzelski ủng hộ. Đồng thời, phải nói rằng mỗi trong hai đối tác này đã hiểu mục tiêu của các cuộc đàm phán một cách khác nhau. Jaruzelski đã chẳng bao giờ che giấu các ý định của mình. Ngay vào ngày đầu tiên của tháng Chín năm 88, khi làn sóng thứ hai của cuộc đình công kết thúc, ông đã nói thế này tại cuộc họp của Ủy ban Trung ương: "Không có những kẻ thua và không có những người thắng. Chúng ta đã không rút lui. Chúng ta đã lặp lại lời đề nghị được đưa ra tại Hạ viện ngày 28 tháng 10 năm 81. Đấy là nghị quyết về thành lập Hội đồng Hoà giải Dân tộc, mà lúc đó đã bị từ chối một cách tàn nhẫn. Vào thời điểm đó Đoàn kết đã đánh mất cơ hội của mình và vẫn tay không. Hôm nay, chúng ta nói: không có chỗ cho Đoàn kết, mà một lần nữa đã chứng tỏ là một đảng của các cuộc đình công, là một nhóm gây rối, nhưng có chỗ cho một số người từ Đoàn kết trước đây những người muốn hợp tác." Tất nhiên, một yếu tố của chính sách này là tạo ra sự rạn nứt giữa những người tốt và những người xấu của Đoàn kết. Vào đầu Tháng Mười 88, tại cuộc họp của Ủy ban Trung ương, Bộ trưởng [Bộ Nội vụ] Kiszczak cho biết: "Liên tục, cùng với đồng chí Ciosek, chúng tôi đã cảnh báo Walesa rằng chúng ta chỉ cần những người tin đối thoại để tham gia Bàn Tròn, nếu chúng ta không muốn Bàn Tròn thất bại. Chúng tôi đã vẽ một bức tranh rõ ràng trước Walesa và các đồng nghiệp của ông ta rằng những kẻ phiêu lưu chính trị và diều hâu phải bị loại khỏi các cuộc đàm phán. Dường như trong mọi trường hợp, chúng ta không thể đồng ý sự tham gia của Kurons, Michniks và những kẻ giống thế." Nhưng ngay cả cách tiếp cận này cũng không được hầu hết các lãnh đạo của đảng cộng sản chấp thuận. "Kẻ thù của chúng ta, đối thủ của chúng ta rất khôn", họ nói. "Các đối thủ của chúng ta đã tập hợp tất cả các phe nhóm đối lập lại với nhau, họ đang thu được những thắng lợi tuyên truyền, và điều này làm phá sản luận đề của chúng ta liên quan đến đối lập xây dựng và phá hoại. Đó là những người đang hoạt động, lấy cảm hứng nào đó từ các trung tâm quốc tế bên ngoài và nhận tiền từ chúng." Đây là lời của tướng Kiszczak. Còn Mieczyslaw Rakowski, Thủ tướng Chính phủ lúc đó, thì nói: "Hiện nay, chúng ta không thể chấp nhận sự phục hồi hoạt động của Đoàn kết và tất cả các đề xuất khác của chúng ta sẽ không được chấp nhận bởi Đoàn kết, tức là bởi các đại diện của Đoàn kết. Vì thế, chúng ta phải đặt câu hỏi: làm gì tiếp? Theo quan điểm của tôi, nếu chúng ta không đồng ý sự phục hoạt Đoàn kết, chúng ta phải dự tính một cú sốc chính trị quy mô lớn, và vì điều này, chúng ta nên bắt đầu chuẩn bị cho một loại đối đầu nào đó, một cách tuyệt mật, tất nhiên." Tất cả các bài phát biểu được trích dẫn này, tôi nghĩ, chỉ ra một bức tranh rõ ràng. Trong giới lãnh đạo đảng cộng sản, bất chấp những chia rẽ nội bộ của họ, rõ ràng hầu hết đã không muốn phục hoạt Đoàn kết, mà muốn phá vỡ nó thành các phe phái, và để tiếp quản các nhà hoạt động của nó vào cơ sở hạ tầng chính trị hiện tại. Và có vẻ như với tôi rằng các cuộc tấn công chống lại một số nhà hoạt động bí mật được lựa chọn, như Jacek Kuron và bản thân tôi, được thúc đẩy bởi thái độ này. Tôi nhớ những ngày đó. Sau cuộc gặp giữa Lech Walesa và tướng Kiszczak vào ngày 01 tháng 9 năm 88, sự lo lắng nào đó đã xuất hiện trong hàng ngũ của chúng tôi. Một mặt, Lech Walesa đã dừng không còn là một công dân riêng nữa, trích dẫn hết trích dẫn, luôn bị các nhà chức trách tẩy chay. Mặt khác, tuy nhiên, chúng tôi cảm nhận sự lừa dối nào đó trong chiến thuật của chính phủ, lập trường mơ hồ của họ liên quan đến việc hợp pháp hóa Đoàn kết, các điều kiện ban đầu không rõ ràng, mà thực tế đã chặn con đường hướng tới đàm phán. Tất cả điều này gây ra sự ngờ vực của chúng tôi. Chúng tôi đã có nhiều cuộc trò chuyện sau đó. Trong một trong các cuộc đó, tôi nghe được từ một người bạn của tôi, "Cái gì? Cậu nuốn nói chuyện với những người cộng sản ư? Trước đây [trong thời bị phát xít chiếm đóng] tướng Okulicki[7] và các nhà lãnh đạo khác của Ba Lan bí mật đã thử nói chuyện với cộng sản rồi!" Chúng tôi tranh luận rất nhiều. Tôi nhớ một đồng nghiệp khác của tôi đã giải thích với tôi rằng không phải là chính quyền cộng sản sẽ hợp pháp hóa Đoàn kết, mà ngược lại, Đoàn kết sẽ xác thực tính hợp pháp cho chính quyền cộng sản. Tôi nhớ một cuộc trò chuyện dài với một người bạn, tham gia vào hoạt động văn hóa độc lập bí mật, và đối với cô ấy Bàn Tròn chỉ đơn giản có nghĩa là một sự phản bội lý tưởng, khuất phục sự kiểm duyệt, và từ bỏ sự độc lập thực sự. Tôi không chia sẻ các quan điểm này nhưng tôi hiểu những người bạn ấy, bởi vì loại thỏa hiệp này có thể làm chúng tôi mất uy tín. Nó có thể! Và nó thực sự đòi hỏi loại nào đó của sự làm trái với bản thân mình, của những xúc cảm và ký ức của mình. Tôi nhớ đã khó đến thế nào để tôi vượt qua sự kháng cự nội tâm và các nỗi sợ hãi của chính mình. Tôi nhớ đã cần bao nhiêu nỗ lực để tôi thử hiểu các lý do của những kẻ thù ngày hôm qua của chúng tôi, những người bây giờ đã trở thành các đối thủ và các đối tác. Suốt từ tháng Chín năm 88, chúng tôi đã nêu rõ ràng các vấn đề. Điều kiện tiên quyết đã là sự hợp pháp hoá Đoàn kết và Lech Walesa đã có một cảm giác hoàn hảo về chúng tôi có thể đẩy xa đến đâu. Ông đã không nhượng bộ các áp lực liên quan đến sự tham gia của bất kỳ cá nhân nào nhưng đã nhất quyết một cách kiên định: "Đoàn kết trên hết." Bởi vì uy quyền không thể bị nghi ngờ của ông trong các giới đối lập, các nhà lãnh đạo cộng sản đã phải chịu thua lập trường cứng rắn của ông. Tuy vậy, trước đó, trong nhiều tuần, đã có một cuộc chiến tranh cân não thực sự. Chúng tôi đã nghe từ Thủ tướng Rakowski rằng những người Ba Lan thực sự quan tâm nhiều hơn đến một cái bàn (ăn) được bày biện hoang phí hơn là một Bàn Tròn. Cũng đã có quyết định đóng cửa xưởng đóng tàu Gdansk, khi chúng tôi đơn giản cảm thấy đã bị đẩy vào chân tường, chúng tôi phải phản đối việc đó. Nhân tiện, đấy cũng là lúc cảnh kỳ quặc nhất trong lịch sử châu Âu thế kỷ XX đã diễn ra, khi các công nhân xưởng đóng tàu Gdansk đã hô vang để chào đón Margaret Thatcher. Khó để nghĩ rằng người đàn bà thép đã nhận được sự ủng hộ nhiều đến vậy từ những người vô sản nổi loạn! Đã có những bài phát biểu đáng nhớ khác. Đã có một bài phát biểu nổi tiếng của Tướng Jaruzelski tại Ursus, trong đó chúng tôi được nhắc đến một cách thô lỗ. Chúng tôi thấy tất cả như một quan niệm chung nào đó về việc thâu nạp những người đối lập nào đó vào chính phủ theo cách mà họ sẽ chia sẻ trách nhiệm mà không có chia sẻ quyền lực. Từ tất cả những tư liệu mà tôi đã trích dẫn dồi dào ở đây, và chúng đều là những tài liệu bí mật của Ủy ban Trung ương đảng cộng sản được nhà xuất bản "Aneks" công bố năm 1994, lộ ra rằng bước đột phá trong lập trường của chính quyền thực sự xảy ra trong Tháng Mười Hai 88. Vào ngày 24 tháng 11, chiếc bàn tròn, được chuẩn bị cho các cuộc tranh luận, thật sự đã bị tháo rời, nhưng ngày 30 tháng 11, đã có một cuộc tranh luận truyền hình giữa Walesa và Miodowicz và đó là một cú sốc cho công chúng, cho công luận. Tôi sẽ chẳng bao giờ quên nó. Tất cả bạn của tôi đã áy náy, lo rằng Walesa sẽ bị Miodowicz, một kẻ mị dân được đào tạo, ăn sống theo nghĩa đen, nhưng tôi khá chắc chắn rằng Lech sẽ đơn giản xé toạc ông ta, bởi cái đúng và chân lý ở bên phía Walesa. Và tôi sẽ không bao giờ quên, và Đức cha Alojzy cũng có thể muốn đề cập đến nó ở đây, khi chúng tôi đang ăn mừng trong văn phòng Đức cha thì Lech trở lại từ cuộc ghi hình. Một cái gì đó thực sự đã vỡ òa vào thời điểm đó. Hóa ra Lech xuất hiện trên TV rất bình tĩnh, ôn hòa và có trách nhiệm, và ông đã không giống, rất không giống như hình ảnh về ông của chính phủ như loại kẻ gây rối nào đó mà các nhà chức trách đã nghĩ về cái gì đó khác hẳn. Và quả thực, trong tháng mười hai năm 88 Rakowski đã diễn đạt một số câu hỏi nổi tiếng của ông về hợp pháp hóa Đoàn kết, được trình bày cho các nhà hoạt động đảng. Đây là một bước ngoặt. Đây là thời điểm khi chúng tôi cảm nhận được sự thay đổi nào đó từ phía các nhà chức trách. Cuối tháng Mười Hai, một tài liệu đã được chuẩn bị. Nó được nhóm dự đoán của Bộ Chính trị thực hiện và không được ký, nhưng tôi có thể cảm nhận rằng phải có nét bút tham lam của giáo sư Janusz Reykowski. Và tài liệu này nói: "Không có dấu hiệu nào rằng vấn đề của Đoàn kết tự nhiên sẽ tan biến. Đoàn kết là một thực tế. Đoàn kết tồn tại; nó tồn tại bất chấp những hạn chế chúng ta áp đặt. Không có dấu hiệu nào rằng các hạn chế này sẽ thành công trong việc loại bỏ hiện tượng này trong tương lai. Nếu vậy, tại sao không bắt đầu một số cuộc thảo luận về sự tồn tại hợp pháp của Đoàn kết? Lập trường hiện tại của chúng ta, thực tế, là thực sự tập trung vào việc phá hoại Bàn Tròn." Đấy là cái mà các nhà phân tích của đảng nói về lập trường của đảng, 'phá hoại Bàn Tròn’. "Theo cách nào đó, cách này hay cách khác, Bàn Tròn phải dẫn đến một loại hợp pháp hoá nào đó của Đoàn kết. Hợp pháp hóa Đoàn kết là một nguy cơ đối với chúng ta, nhưng nếu chúng ta không làm điều đó, ai có thể bảo đảm việc giải thể nó? Chúng ta có thể hoặc giữ Đoàn kết bên trong các chuẩn mực của luật hoặc để nó, với tiềm năng thực sự của nó, ngoài các chuẩn mực của luật." Và đây là một lập trường hoàn toàn khác với toàn bộ phương châm chính sách của đảng. Do đó, không ngạc nhiên khi tại phiên họp toàn thể tháng Mười Hai, một cuộc tấn công lớn của các nhà hoạt động đảng chống lại ban lãnh đạo đã xảy ra. Các nhà hoạt động đảng đã không muốn tái hợp pháp hóa Đoàn kết đáng ghét. Khi bây giờ chúng ta phân tích những ngày đó, chúng ta phải nhìn thấy sự mâu thuẫn bên trong bộ máy đảng, bên trong giới elite cầm quyền. Và những người xuyên tạc phần đó của lịch sử vì lý do chính trị hiện nay của riêng họ và cho rằng đã không có sự chia rẽ sâu sắc như vậy, vậy thì họ tạo ra sự chép sử giả, mà việc đó, lần lượt, phải tạo chính kiến giả dối. Trong hoàn cảnh đó, vào ngày 17-1-1989, đã có một phiên họp đặc biệt của Bộ Chính trị. Trong biên bản phiên họp đó chúng ta có thể đọc: "Bí thư thứ nhất Tướng Jaruzelski nói rằng ban lãnh đạo không có sự tin tưởng của các nhà hoạt động đảng, và điều đó tạo ra một tình huống khủng hoảng. Hoặc các ủy viên Trung ương," Jaruzelski nói rằng, "Hoặc các ủy viên Ủy ban Trung ương đảng sẽ chứng tỏ sự tin tưởng vào ban lãnh đạo, hoặc ban lãnh đạo phải từ chức. Và nếu có sự tin tưởng, chúng tôi có quyền để yêu cầu thực hiện các nghị quyết đã được thông qua." Thay mặt các đồng chí Rakowski, Siwicki, và Kiszczak, Jaruzelski tuyên bố rằng nếu họ không nhận được phiếu tín nhiệm, tất cả họ sẽ xin từ chức. Nói cách khác, Jaruzelski, cùng với hai tướng và Thủ tướng Chính phủ Rakowski, đã đưa ra "một đề nghị không thể từ chối," như họ nói trong bộ phim The Godfather, với Ủy ban Trung ương. Đề nghị không để bị từ chối, bạn hoặc ký vào đây, hoặc não bạn sẽ tung tóe trên mảnh giấy đó. Theo cách này, con đường dẫn đến sự tái hợp pháp hóa của Đoàn kết đã được mở ra, nhưng chúng tôi, các thành viên của phe đối lập, đã phải trả một giá cao cho nó. Chúng tôi đã trao tính hợp pháp cho hệ thống bằng cách tham gia các cuộc bầu cử. Các nhà lãnh đạo đảng cộng sản đã muốn thay đổi tất cả theo cách mà sẽ duy trì nguyên trạng. Tạo ra cái có thể nói là công thức bầu cử được thỏa thuận trước bằng hợp đồng trong các cuộc bầu cử Hạ viện là cách của họ để đạt được điều này, và đó là cái giá chúng tôi đã đồng ý trả vì Đoàn kết. Tôi nhớ rất kỹ lễ khánh thành Bàn Tròn, khi giáo sư Geremek buộc tôi mang com lê và cà vạt, và khi, nghe những nhận xét láu cá của Walesa và những người khác, tôi đã đi đến Cung điện Phó vương ở Warsaw. Để vào phòng tranh luận, phải đi lên cầu thang, và ở trên cùng Tướng Kiszczak và Bí thư Stanislaw Ciosek đứng đón chào khách. Tôi xoay xở để nấp trong phòng tắm sao cho không bị bất cứ ai nhìn thấy phải bắt tay với cảnh sát trưởng. Tôi đơn giản sợ vợ tôi sẽ đuổi tôi ra khỏi nhà. Vì vậy, tôi đã tìm thấy một nơi ẩn nấp trong phòng tắm, đợi mấy phút ở đó, nhưng khi tôi ló ra, ông Kiszczak vẫn còn đó chìa tay ra để bắt. Bạn biết đấy, đèn chiếu sáng, máy ảnh ... và đây là cách tôi đã đánh mất sự trinh tiết của mình! Chúng tôi đã có một cảm giác kì lạ về tình hình của mình. Chỉ hai năm rưỡi trước đây tôi đã được giải thoát khỏi nhà tù, và đã có đồng nghiệp của tôi, bạn bè thời bí mật, Kuron, Bujak, Frasyniuk, những người khác. Nhưng cùng lúc, tôi nhận thấy rằng sự thay đổi lịch sử loại nào đó đang diễn ra mà tôi đã không có khả năng xác định tại thời điểm đó. Tôi đã hiểu một điều: phe đối lập dân chủ cuối cùng đã bước một bước qua ngưỡng của tính hợp pháp. Từ Cung điện Phó vương đó con đường của chúng tôi chỉ có thể dẫn hoặc đến nhà tù ở đường Rakowiecka hoặc đến sự chấm dứt của hệ thống cộng sản. Trong các cuộc đàm phán này, tôi vẫn đánh hơi tìm các cạm bẫy và sự lừa gạt, thế nhưng từng bước một, tôi đã có khả năng để nhận biết sự ra đời của một cơ hội lịch sử cho đất nước tôi. Các cuộc bầu cử Hạ viện đã là cái bẫy then chốt, vì các đại biểu Đoàn kết trong Hạ viện sẽ là một thiểu số, vì vậy đó là lý do vì sao các nhà hoạt động Đoàn kết đã hoài nghi về các cuộc bầu cử đó. Tôi nhớ cuộc họp đầy kịch tính của Ủy ban Quốc gia ở Gdansk, nơi mà, cùng với Jacek Kuron, chúng tôi đã cố gắng thuyết phục bạn bè của chúng tôi rằng Ba Lan đang đứng trước một cơ hội tuyệt vời, và chúng ta nên tận dụng lợi thế của nó, nhưng chúng tôi vấp phải sự chống đối mạnh mẽ, ngay cả trong số những người bạn rất thân thiết. Và tôi không biết làm thế nào nó sẽ kết thúc nếu không có Bronislaw Geremek, người đã phá bung khỏi sự cô độc tuyệt vời của mình và đưa toàn bộ uy lực của ông để gây ảnh hưởng đến Ủy ban Quốc gia để tham gia vào các cuộc bầu cử. Chúng tôi đã tranh luận về các quy trình, các thủ tục bỏ phiếu bầu cử nhưng lời buộc tội chính đã là những người tiến hành các cuộc đàm phán đã không được đại diện đầy đủ. Và đấy là một lời buộc tội hợp lệ. Đó là sự thật. Niềm tin của tôi đã là, từng bước chúng tôi đang phá hủy hệ thống cộng sản. Đối thủ của chúng tôi đã nghĩ rằng họ sẽ hiện đại hóa hệ thống thông qua những cải cách, nhưng chúng tôi đã cảm thấy rằng mình theo đuổi một sự phá hủy hòa bình. Đấy, Đoàn kết [thời] bí mật đã không phải là một cấu trúc dân chủ chính quy bởi vì nó đã không thể là và quan điểm của Lech Walesa đã luôn luôn mang tính quyết định, nhưng đồng thời, Đoàn kết đã có một tinh thần dân chủ bắt rễ sâu trong văn hóa của nó, do đó, ngay lập tức xuất hiện nhiều tranh luận nội bộ về việc ai nên đề cử các ứng cử viên cho Hạ viện. Tất cả những gì đã được nói về sự tùy tiện của quá trình này là đúng, nhưng tôi nghĩ rằng nó đã không thể được thực hiện khác đi. Cơ hội của Đoàn kết đã là huyền thoại về nó và huyền thoại về Walesa. Đoàn kết đã yếu, vài, tối đa vài ngàn người ở khắp Ba Lan. Đã không thể có thủ tục dân chủ đầy đủ tại thời điểm đó. Đã là cốt yếu để hành động nhanh chóng nhằm tạo ra một đội đáng tin cậy có thể thắng các cuộc bầu cử. Chúng tôi đã làm ra vẻ mạnh hơn chúng tôi thực sự là. Đã là cần thiết để chấp nhận rủi ro. Chúng tôi đã đánh cuộc rằng sức mạnh của Đoàn kết sẽ phát triển trong chiến dịch tranh cử, và huyền thoại của nó sẽ được thể chế hóa. Đây là sự đặt cược của chúng tôi và chúng tôi đã thắng. Bây giờ, [nói] về Magdalenka.[8] Huyền thoại lớn về Magdalenka. Magdalenka đã là nơi một nhóm elite thảo luận kỹ lưỡng các vấn đề khó khăn, mâu thuẫn nhất. Trong thời gian Bàn Tròn, tôi tham gia tất cả các cuộc thảo luận kỹ lưỡng này. Và đã thật sự hấp dẫn để xem các kẻ thù cũ ngồi vào bàn và cố gắng tìm ra loại ngôn ngữ chung nào đó. Đã là rõ với tất cả mọi người, kể cả Tướng Kiszczak, rằng họ đang chôn thế giới cũ. Rõ ràng với tất cả mọi người rằng trong thế giới mới, chưa biết đến này họ sẽ tình cờ để sống cùng nhau, các cựu tù nhân và các cai ngục trước đây. Sau này, một huyền thoại được tạo ra rằng một loại hiệp ước bí mật nào đó đã được ký kết ở Magdalenka, và nó vẫn lan truyền như một khuôn mẫu (stereotype). Và cũng giống như tất cả các khuôn mẫu, nó kháng thảo luận. Tôi chỉ có thể nói: chẳng có gì thuộc loại đó đã xảy ra, không có thỏa thuận âm mưu bí mật nào cả mà nó là một sự tìm kiếm thỏa hiệp trong các vấn đề khó khăn nhất, dễ kích động nhất, như việc nghiệp đoàn hóa các cơ sở sản xuất làm việc cho quân đội, các vấn đề về khai thác mỏ, các vấn đề về Thượng viện và Tổng thống. Và chúng tôi thực sự đã chiến đấu chật vật về tất cả các vấn đề này. Và thế đó. Đã không có các thỏa thuận bí mật nào. Chúng tôi đã tiếp tục tới các cuộc bầu cử và chúng tôi đã thắng theo cách mà đơn giản đã làm chúng tôi hoảng sợ bởi quy mô của nó. Chúng tôi không biết phải làm gì với chiến thắng của mình, nhưng điều quan trọng nhất là trong các cuộc bầu cử đó dân tộc Ba Lan đã từ chối hệ thống cộng sản. Trong thời gian Bàn Tròn, chúng tôi đã tranh luận về cách để tiếp tục, để tiếp tục tiến lên. Tôi ủng hộ con đường Tây Ban Nha đến dân chủ. Tôi đã tin rằng hệt như ở Tây Ban Nha, nơi elite của Franco và elite cộng hòa đã có khả năng đi đến thỏa thuận chiến thuật, chúng tôi cũng phải có khả năng làm điều đó. Sự buộc tội về phản bội đã nổi lên muộn hơn. Có lẽ chúng ta sẽ quay trở lại vấn đề này, nhưng vào thời điểm này tôi chỉ muốn nói một điều. Sự thỏa hiệp Bàn Tròn đã là có thể bởi vì ở cả hai bên đã có những người chấp nhận chịu rủi ro bị buộc tội phản bội bởi chính cộng đồng của mình. Và đó là số phận của các nhà cải cách, họ đi với nhịp độ sên bò và họ bị đập vào đầu bởi những người cực đoan của chính phe họ. Nhưng chỉ nhờ các nhà cải cách như vậy mà chúng ta có thể tin rằng triết lý thỏa thuận có một tương lai và người ta có thể xây dựng tương lai đó trên sự xác tín rằng chỉ có một nước Ba Lan được chia sẻ bởi những người đã chiến đấu chống lại nền Cộng hòa Nhân dân và những người phục vụ nền Cộng hòa Nhân dân, mới có thể là một Ba Lan thực sự dân chủ . Nếu chúng ta loại trừ bất cứ ai, chúng ta sẽ phải chấp nhận sự phân biệt đối xử loại nào đó, mà trong phân tích cuối cùng luôn luôn dẫn đến những dối trá và bất công. Ơn Chúa Ba Lan đã chọn con đường khác. Cảm ơn bạn.
Moderator:
Michael D. Kennedy, Phó Giáo sư Xã hội học, Đại học Michigan
Có lẽ là một điều rất tốt rằng các cuộc đàm luận tại Magdalenka đã không có bất kỳ giới hạn thời gian nào trên chúng, và tôi phải thừa nhận và xin lỗi các diễn giả của chúng tôi rằng chúng tôi đã giao cho họ một nhiệm vụ thực sự là không thể, để nói nhiều đến vậy trong thời gian mà chúng tôi đã cho họ, và vì vậy tôi xin lỗi vì điều đó, nhưng tôi rất biết ơn về có thể nói ra bao nhiêu trong thời gian rất ngắn này. Diễn giả thứ hai của chúng tôi tối nay là Mieczyslaw Rakowski. Ông Rakowski là tổng biên tập của Polityka 1958-1982. Ông trở thành Thủ tướng Chính phủ ngày 27-9-1988, và ngay lập tức đưa ra một cuộc cải cách kinh tế triệt để. Ông đã cùng Tướng Wojciech Jaruzelski dọa từ chức khỏi Bộ Chính trị tháng 1 năm 1989, nếu Ủy ban Trung ương của Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan, đảng cộng sản Ba Lan, không tán thành nghị quyết về đa nguyên chính trị và công đoàn. Ông đã là Bí thư thứ nhất cuối cùng của đảng và ngày nay là biên tập viên của Dzień, Przeglad Spoleczny. Thưa quý ông và quý bà, Mieczyslaw Rakowski.
Panellist (diễn giả):
Thủ tướng Mieczyslaw Rakowski, Tổng biên tập Polityka (1958-1982), ủy viên Ban chấp hành Trung ương (1975-1990) và Bí thư thứ nhất (1989-1990) của Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan, Thủ tướng Chính phủ (1988-1989).
Quý ông quý bà thân mến. Trước hết, tôi xin cảm ơn tất cả các bạn đã mời tôi dự hội nghị này, hội thảo này, bởi vì thực ra Bàn Tròn và hoàn cảnh gắn với nó, cũng như quá trình dẫn đến Bàn Tròn, và các bình luận hiện thời về nó, tất cả chúng đòi hỏi sự chú ý liên tục của chúng ta. ... (gián đoạn trong băng) ... Tôi muốn chuyển đến các bạn lời chúc chân thành từ Tướng Jaruzelski và tôi muốn nói rằng ông đã không đến đây vì chỉ một lý do, và đó là sức khỏe của ông, mà đáng tiếc trở nên tệ hơn. Ông đang bị một bệnh về mắt và khó hơn cho ông để đọc kể từ khi ông được giải phẫu ung thư mi mắt, và sau đó chứng đau lưng cũ tái phát gây khó khăn cho việc ngồi ở một nơi trong một vài giờ. Bây giờ tôi muốn chuyển sang nhiệm vụ đã được giao cho tôi. Rõ ràng, tôi sẽ không kể lại chi tiết những gì đã xảy ra ở Ba Lan và những gì cuối cùng đã dẫn đến Bàn Tròn, bởi vì hai mươi phút là không đủ, tất nhiên. Adam Michnik đã vượt quá giới hạn này vì ông đã nói ba mươi lăm phút nhưng, phải, ông đại diện cho bên thắng cuộc.
Michnik:
Nhưng tôi nói lắp...
Rakowski:
Ông đã không lắp bắp lúc này! Ông không nói lắp khi ông không muốn! Tôi sẽ cố ép bản thân mình vào giới hạn hai mươi phút đó, vì vậy xin tha thứ cho tôi nếu tôi nói rất ngắn. Thế nên, trước hết, đúng là kỷ niệm lần thứ mười của Bàn Tròn đã tạo cảm hứng cho các cuộc thảo luận, tranh luận, đánh giá mới, không nhiều đến vậy, tất nhiên, bên trong toàn xã hội, quần chúng, như trước hết giữa các elite chính trị và có lẽ giữa các bộ phận của giới trí thức, bởi vì phần lớn xã hội đang bận rộn với những thứ hoàn toàn khác với các lễ kỷ niệm ngay cả ở tầm cỡ này. Tuy nhiên, điều này không làm giảm tầm quan trọng của tất cả các cuộc tranh luận này tập trung vào Bàn Tròn mà gần đây đã được thực hiện ở Ba Lan. Lắng nghe các cuộc thảo luận và tham gia vào đó, tôi đã phát hiện ra rằng những cảm xúc vẫn còn đóng một vai trò lớn trong việc đánh giá Bàn Tròn, và các đánh giá được lên tiếng đã phụ thuộc vào vị trí của họ trong phổ chính trị và vào thế hệ nào mà họ đại diện. Về loại sau, giữa những người chỉ trích Bàn Tròn dữ dội nhất là các nhà hoạt động cánh hữu trẻ, những người nghĩ rằng Magdalenka là một sự phản bội Đoàn kết, phe đối lập, và Bàn Tròn như Adam Michnik đã nói, là "một giao dịch giữa bọn đỏ và bọn hồng." Thế đấy, tại thời điểm đó, khi các lãnh đạo của phe đối lập, Lech Walesa, Mazowiecki, Geremek, Kuron, Frasyniuk, Michnik tất nhiên, Bujak, và những người khác ... Khi các nhà lãnh đạo này đã dồn hết can đảm của mình để tin tưởng chúng tôi, mặc dù họ đã có lý do để không làm như vậy, thì những người chỉ trích trẻ ngày nay của Bàn Tròn còn học trung học, hoặc là các sinh viên vừa vào đại học. Họ không có gì trong sơ yếu lý lịch của mình để chứng tỏ sự anh dũng chống lại chế độ cộng sản, vì vậy họ chỉ viết sơ yếu lý lịch mới, cố bù đắp cho khoảng trống đó. Phê phán Bàn Tròn, họ thể hiện cứ như họ đã từng ở đó, cứ như họ đã thực sự đánh bại những người cộng sản và họ sẽ tống bọn [cộng sản] đó đến nơi bọn nó thuộc về, đến trại giam nơi nào đó, có lẽ không ở Siberia, nhưng họ đã có thể tìm thấy một nơi. Thế đấy, nhóm này, mà chỉ đơn giản viết sơ yếu lý lịch của mình, nghĩ rằng "bọn đỏ" và "bọn hồng" đã tạo ra một huyền thoại về tầm quan trọng của các cuộc đàm phán Bàn Tròn, trong khi các cuộc gặp tại Magdalenka đã thực sự là các yến tiệc người ăn thịt người. Đó là những gì tôi nghe thấy trên một trong những chương trình truyền hình ở Ba Lan. Thế đấy, quan trọng để lưu ý rằng đôi khi thật đáng sợ phải nghe các ý kiến như vậy, bởi vì chúng chứng tỏ một phương thức tư duy hoàn toàn phi lịch sử của một bộ phận nào đó của trí thức Ba Lan, chủ yếu là trong phe cánh hữu hiện nay. Nhưng đó chỉ là nhận xét ​​giới thiệu biện minh cho sự cần thiết phải liên tục chú ý đến lịch sử của Bàn Tròn. Và tôi muốn suy nghĩ vì sao loại giải pháp này cho một cuộc xung đột xã hội căn bản lại có thể xảy ra ở Ba Lan. Cái gì đã dẫn đến Bàn Tròn? Và tôi bác bỏ ý kiến cho rằng chỉ nhờ Đoàn kết mà Bàn Tròn đã là có thể. Tôi ghi ngờ sự thật đứng sau luận điểm này, bởi vì cần hai người để nhảy điệu tango. Cũng đã cần đến sáng kiến để khởi động các cuộc đàm phán với phe đối lập và công nhận nó như một đối tác. Đã là cần thiết về phần những nắm quyền lực, và tôi không thể đồng ý với những người nói rằng chúng ta, với tư cách những người cộng sản, đấy, lịch sử đã đặt chúng ta vào vị trí đó, ... hoặc chủ nghĩa cộng sản sắp xuống mộ của nó. Đúng, tất nhiên, không nghi ngờ gì nó sẽ bước vào mộ của nó, nhưng chẳng ai biết khi nào. Đã không được khắc trên bia đá rằng việc đó phải xảy ra trong cuối những năm 1980. Nói cách khác, ý chí chính trị mới đã phải xuất hiện để cho phép chúng tôi đánh giá lại rất nhiều ý tưởng của chúng tôi về chủ nghĩa xã hội và quyền lực và để chấm dứt chính sách đối đầu chính trị thường xuyên, thông qua việc sử dụng các biện pháp hành chính để đối phó với phe đối lập chính trị nổi lên vào cuối những năm 70 và kéo dài trong các năm 1980. Vậy thì, nó đã xảy ra chính xác như thế nào? Tôi sẽ trở lại điểm đó, nhưng để trả lời câu hỏi này, có vẻ như đối với tôi, ta phải nhìn vào lịch sử Ba Lan hiện đại, đôi khi khá xa trong thời gian. Cụ thể hơn, chúng ta phải nghĩ xem liệu tình hình Ba Lan sau năm 1945, và đặc biệt sau năm 1956, có nét độc đáo hay không theo bất cứ cách nào. Tôi nghĩ đã có nhiều lý do làm cho nó là có thể bất chấp những gì tôi đã nghe ở đây hoặc đã nhìn thấy trong bộ phim đó, mà lời bình của nó, nói thật, tôi không thích. Không nhắc đến là đã có những diễn giải sai ở đó, nhưng hãy mặc kệ nó. Vậy, có vẻ như với tôi rằng thử để xác định xem có điều gì đó độc đáo về Ba Lan đã dẫn chúng tôi đến các giải pháp như vậy, chúng ta cần tính đến các đặc điểm sau đây: Trước hết, các mối quan hệ Ba Lan truyền thống với phương Tây, đã chưa bao giờ bị cắt đứt, ngay cả khi chúng bị hạn chế, tất nhiên, rất nhiều hạn chế, siêu hạn chế, như họ muốn nói bây giờ ở Ba Lan, trong thời Stalin. Nhưng sau năm 1956, đã sự tăng cường nào đó, loại cởi mở nào đó của các tiếp xúc ấy. Và những mối quan hệ đó, theo quan điểm của tôi, đã ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của trí thức Ba Lan, kể cả phần của giới trí thức trong đảng, hay nói cách khác, một phần tương đối lớn của mảng hoạt động chính trị của xã hội Ba Lan. Tôi muốn nói thêm ở đây, trong dấu ngoặc, rằng theo các tính toán mà chúng tôi thực hiện tại thời điểm, giữa năm 1957 và năm 1989, chính xác đã có chín ngàn rưởi sinh viên tốt nghiệp của các trường đại học Ba Lan nhận được học bổng phương Tây và đã nghiên cứu ở Hoa Kỳ, Pháp, Anh, và sau năm 1970, nghĩa là sau khi hiệp ước với Đức, cả ở Tây Đức nữa. Ba Lan là nước duy nhất trong khối Đông Âu đã cử ..., và đúng, họ đã đi với sự cho phép của chính quyền, vì vậy tôi có thể nói "cử" rất nhiều người trẻ sang phương Tây. Thế đấy, thế hệ đó..., cũng tất nhiên, hầu hết trong số đó là đảng viên, nhưng dẫu sao không phải tất cả. Đấy, khi họ trở lại Ba Lan, họ đã tạo ra một loại bầu không khí khác trong cộng đồng của họ. Họ không còn là tù nhân của một ý thức hệ nữa bởi vì họ đã có cơ hội để đối sánh ý thức hệ đã được nhồi vào họ với thực tế ở phương Tây. Và tôi nghĩ rằng đó là nét rất độc đáo đối với Ba Lan mà, theo quan điểm của tôi, là rất quan trọng và không nên bỏ qua. Một nét độc đáo khác đã là cái đã xảy ra sau khi Gomulka[9] trở lại nắm quyền vào năm 1956, đúng, đã chấm dứt việc tập thể hóa các trang trại và tăng cường khu vực tư nhân trong nông nghiệp. Đó là một giải pháp của một trong những vấn đề quan trọng nhất đối với dân tộc Ba Lan, vì, đúng là, các nông trang tập thể đã luôn, tức là khi chúng được đưa vào, không gắn với bất cứ nước khác nào trừ Liên Xô, tất nhiên. Theo ý nghĩa này, nó đã là một vấn đề dân tộc. Nông nghiệp tư nhân đã chắc chắn ảnh hưởng đến tinh thần kinh doanh của người Ba Lan, mà chúng ta đã có thể quan sát thấy sau khi chuyển đổi. Một đặc trưng độc nhất khác đã là thái độ của Gomulka đối với Liên Xô, hay nói cách khác, thực tế là sau năm 1956, sự kiểm soát của Liên Xô, của ban lãnh đạo Liên Xô đối với đảng Ba Lan đã không còn mạnh. Gomulka chắc chắn là một người cộng sản quốc gia, và thái độ của ông đối với Liên Xô là quan trọng, đặc biệt về chính sách nông nghiệp. Ông đã bị các đồng chí Liên Xô chỉ trích nhiều lần khi ông phàn nàn rằng họ không thể quản lý công nghiệp nông trang của họ. Họ đã nói, ừ, chúng tôi biết tình hình nông nghiệp của chúng tôi kỹ hơn ông, đồng chí Gomulka ạ. Gomulka có một loại điểm yếu, khiến ông ta hành động chống lại những người trẻ khi đó, chẳng hạn, như ông Michnik và các bạn ông, và nói chung chống lại cái gọi là chủ nghĩa xét lại, và đó đã là nỗi sợ hãi thường trực của ông rằng Moscow có loại mặc cả nào đó với Đức trên đầu chúng tôi. Ông đã không cảm thấy an toàn về biên giới phía tây của chúng tôi. Tôi nhớ một cuộc trò chuyện với Gomulka vào tháng Bảy năm 64 sau cuộc viếng thăm của Adzubej (tên không rõ) ở Đức, nơi ông ta tuyên bố rằng chỉ có hai quốc gia ở châu Âu thực sự biết làm thế nào để khóc, người Nga và người Đức, và khi ông đã nói rất nhiều về tình hữu nghị Nga-Đức. Tôi tình cờ nói chuyện với Gomulka tại thời điểm đó, và những gì ông nói đã là ... phải, ông đã chỉ trích bài phát biểu Adzubej và ông nói, "Thế đấy, họ đã bán rẻ chúng ta suốt khoảng hai trăm năm. Anh có nghĩ rằng không còn nữa những người muốn có một sự ngã giá khác?" Và ông nói thêm: "Tôi cứ lặp đi lặp lại rằng ở Potsdam biên giới Ba Lan tại các sông Oder và Neisse đã được phê chuẩn. Nhưng không thật sự đúng. Stalin đã đấu tranh cho biên giới của ông ta ở Kaliningrad và chẳng ai chất vấn điều đó .... Stalin đã không ép buộc ....," và tôi trích dẫn ông ta trực tiếp, [Stalin] "đã không ép buộc phê chuẩn đầy đủ ở Potsdam, anh biết về những người tham dự Hội nghị Potsdam, bởi vì ông ta đã muốn có các sợi dây mà ông có thể kéo tại điểm nào đó." Thế đấy, nỗi sợ hãi đó mà Gomulka bị ám ảnh đã ảnh hưởng tới lập trường của ông. Nhưng đây không phải là thứ duy nhất quan trọng về việc lên nắm quyền của Gomulka. Việc ông lên nắm quyền đã đánh dấu sự kết thúc của sự cai trị của những người cộng sản từ Quốc tế thứ ba tại Ba Lan, những người đã mù quáng hiến dâng cho Stalin và những người đã chấp nhận bá quyền của Liên Xô trên toàn bộ phong trào cộng sản mà không có sự bảo lưu nào. Thế hệ đó rồi bị thay thế bởi thế hệ trẻ hơn, mà không có, hãy diễn đạt theo cách đó, các mối ràng buộc tư tưởng, chính trị và tình cảm với chủ nghĩa Stalin. Phải, người ta rất thường xuyên nói rằng Tito là một người đã phản đối Stalin, và điều đó là đúng. Tuy vậy, tôi muốn nhắc đến rằng Gomulka cũng đã chống Stalin. Trong năm 48, khi ông bị đuổi vì sự hữu khuynh-dân tộc chủ nghĩa, lý do thực sự đã là vì trong tháng Bảy năm 48, ông đã nói trong một bài phát biểu rằng Đảng Xã hội Ba Lan đã có một cách tiếp cận đúng hơn cho vấn đề độc lập so với KPP (Đảng Cộng sản Ba Lan). Thế đấy, trước đại hội hợp nhất không lâu, Stalin đã nói chuyện với Gomulka ..., từ đó Stalin đã tôn trọng Gomulka theo một cách nào đó, trái ngược với Bierut[10], với người mà ông ta đã nói chuyện như "job twoju mac" (kiểu văng tục tiếng Nga: đ. mẹ mày). Thế đấy, Stalin đã mời Gomulka và đã muốn nói chuyện với ông tham gia vào ban lãnh đạo của đảng hợp nhất mới này. Beria đã có mặt trong cuộc trò chuyện đó, và khi Gomulka từ chối, ông ta bỗng xen vào và nói, và tôi sẽ nói bằng tiếng Nga, "Towariszcz Hamulka, widz Towariszcz Stalin wam predlagajet." Có nghĩa là: "Đồng chí Gomulka, đồng chí Stalin đề xuất điều này cho ông." Sau đó Stalin nói, "Tisze, prokuror, tisze." "Yên nào, công tố viên, yên nào." Và, tất nhiên, Gomulka đã không gia nhập vào ban lãnh đạo của đảng mới đó. Thế đấy, tôi nghĩ rằng, đó là một nét độc đáo khác nữa của Ba Lan. Bây giờ tôi sẽ nói điều gì đó mà có thể nghe không hay trong cuộc tụ họp này, nhưng tôi nghĩ rằng, nghịch lý thay, Moczar[11] cũng đã củng cố xu hướng dân tộc trong đảng của Ba Lan. Tôi chưa bao giờ là một người ngưỡng mộ Moczar, hoặc bạn của ông, nhưng nó hơi giống một chút, các bạn nhớ từ phim Fiddler on the Roof (Người chơi đàn violin trên mái nhà), khi nhân vật chính, cân nhắc về tình trạng của mình, cất tiếng hát: "Một mặt, thật tồi, nhưng mặt khác, là tốt." Thế đấy, Moczar, theo ý kiến của tôi, có lẽ trái với ý muốn của ông, mặc dù nó khó có thể nói, nhưng bằng cách này hay cách khác, ông đã tăng cường các yếu tố dân tộc. Bây giờ hãy để tôi tổng kết vấn đề này về những đặc điểm độc đáo của Ba Lan, nhưng quan trọng là phải nói tất cả điều này vì nó có ý nghĩa đối với sự diễn biến muộn hơn trong tình hình Ba Lan. Thôi, cố gắng để cô đọng, tôi đã không nhắc đến rằng một nét độc đáo khác đã là vai trò dân tộc của Giáo Hội Công Giáo, theo ý nghĩa của sức mạnh dân tộc. Và tất nhiên, các giới trí thức trong suốt toàn bộ gian đoạn này, mà đã khác các nước khác của chủ nghĩa xã hội thực sự, hay chủ nghĩa cộng sản, như cách bạn muốn gọi thời kỳ này. Đấy, tự do, chúng tôi đã có nhiều tự do hơn, ... không có nghĩa rằng chúng tôi đã có tự do, nhưng chúng tôi đã có tự do hơn ở Tiệp Khắc trong các năm 60, trước Mùa xuân Praha, mà đã là một sự nổ ra tương đối đột ngột, hơn ở các nước khác, hơn ở Hungary. Hơn nữa, ở Ba Lan có một cái gì đó giữa các trí thức mà tôi có thể gọi là một sự tự hào dân tộc. Trí thức Ba Lan, những người trong nghệ thuật và văn hóa đã luôn được các trí thức Nga coi như các hình mẫu, những người đã có cái gì đó để nói, những người được tự do hơn. Không phải là một trùng hợp ngẫu nhiên mà những người Nga, tôi muốn nói là giới trí thức Nga, đã học tiếng Ba Lan để có thể đọc báo chí Ba Lan trong các năm 60 và 70. Đã tồi tệ hơn trong những năm 1980, bởi vì khi Đoàn kết xuất hiện, số lượng bản của các báo Ba Lan gửi sang Nga đã giảm nghiêm trọng, trong trường hợp của Polityka, chẳng hạn, xuống tám mươi ba bản. Và chúng tôi cần phải nói rằng Ba Lan, phim Ba Lan, sách Ba Lan, cũng như các ngành khoa học Ba Lan, đặc biệt là khoa học xã hội, xã hội học, tất cả được coi ở Liên Xô như cái gì đó đáng để biết, cái gì đó là nguồn cảm hứng cho nhiều người Nga. Tất cả điều này để cùng nhau đã gây ra, tất nhiên đó là ý kiến của tôi, thực tế là sau năm 1956, kể từ đầu năm 1957, Ba Lan đã có thể duy trì tính độc đáo riêng của nó so với tất cả các nước còn lại của khối Xô Viết, và chính sự độc đáo này tại một thời điểm nhất định, trong năm 76, đã dẫn đến sự xuất hiện của một sự đối lập được tổ chức, đó là Ủy ban Bảo vệ Công nhân. Sự đối lập đó, tuy nhiên, đã phát triển trước đó, lễ kỷ niệm thứ mười của tháng 10 năm 1956 đó đã là sự khởi đầu rồi, và cái đã xảy ra trong vụ Leszek Kolakowski[12], và, tất nhiên, bức thư ngỏ[13] của Kuron và Modzelewski cho các đảng viên. Tất cả những thứ này đã là các yếu tố của sự đối lập đang nổi lên nhưng tất cả đã có thể xảy ra bởi vì hoàn cảnh chính trị đã như vậy.  Đã là không thể ở Tiệp Khắc, hoặc Bulgaria, và hoàn toàn không thể ở Liên Xô, nơi họ vẫn có Siberia và các bệnh viện tâm thần, vì các bạn biết, ai đó người chống lại quyền lực Soviet không thể có đầu óc bình thường. Phải, tất cả các thứ đó đã dẫn đến thực tế là sự xuất hiện của phe đối lập, đúng, cái mà ban lãnh đạo đảng không mong đợi, nhưng đồng thời họ phần nào đã biết nó tồn tại. Năm 1980, Đoàn kết và đình công hàng loạt xuất hiện. Bây giờ một câu hỏi là liệu những gì đã xảy ra ở Ba Lan sau đó đã có một cơ hội để tồn tại. Tôi không nghĩ vậy. Cuộc thử nghiệm đã kéo dài mười sáu tháng và đã là cuộc đụng độ đầu tiên của hai quyền lực chính trị đối lập có sức mạnh không ngang nhau, mặc dù phong trào đó đã có khoảng mười triệu thành viên. Và ý kiến của tôi là, trong giai đoạn đầu, các nhà chức trách đảng cộng sản, mà tôi thuộc về và đó là lý do vì sao tôi thường nói "chúng tôi" chứ không phải "họ," chế độ đó đã không sẵn sàng về mặt chính trị hay tâm lý để chấp nhận phe đối lập như một cái gì đó có thể tồn tại trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, và thậm chí ít sẵn sàng hơn để chia sẻ quyền lực với nó. Và sự chấp nhận các nghiệp đoàn độc lập với chính quyền nhà nước và thực sự là với nhà nước với tư cách như vậy, không, đó không phải là một phần của chính khái niệm chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi vẫn tin rằng quân luật, và tôi không muốn nói về quân luật, vì không có thời gian cho việc đó, nhưng sau khi thiết quân luật được áp đặt, chúng tôi ở trong đảng vẫn tin rằng chúng tôi đối mặt với một cuộc khủng hoảng, chúng tôi đã nhận thức đầy đủ về điều đó, nhưng chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi có thể tự vượt qua khủng hoảng, mà không có phe đối lập. Và tôi từ chối ý kiến ..., quả thực tôi cười khẩy khi nghe một số đồng chí cũ của mình những người bây giờ cho rằng khi đó họ đã sẵn sàng để chấp nhận phe đối lập, và họ đã nghĩ rằng, phải, các nhà lãnh đạo đảng đã chỉ là những kẻ giáo điều cố chấp bám chặt lấy quyền lực, và đó là lý do tại sao lãnh đạo đảng đã không muốn hợp pháp hóa phe đối lập và chia sẻ quyền lực. Thật vô nghĩa. Đây là một sự dối trá lịch sử. Chúng tôi đã tin, chúng tôi đã tin chắc rằng chúng tôi có thể đối phó mà không có phe đối lập và sự xác tín này, trên thực tế, đã kéo dài cho đến giữa các năm 1980, nhưng nó cũng đã liên quan đến nỗi sợ hãi của chúng tôi về Liên Xô. Bởi vì thế hệ của Jaruzelski và, nói chung, các thế hệ đã trải qua các trại cải tạo, những người cộng sản Ba Lan, hoặc những người trở thành những người cộng sản muộn hơn, những người đã chặt cây ở Siberia, thế hệ này trở lại Ba Lan với một cảm giác bất lực trước quyền lực. Đó không phải là bất kỳ loại thân phận nô lệ nào nhưng là nỗi sợ hãi và sự tôn trọng tuyệt đối sức mạnh phía đông của sông Bug. Đó là một trong những bài học mà Jaruzelski đã học, và theo ý tôi, chắc chắn rằng nó có tác động đến thái độ của ông đối với phe đối lập trong những năm 1980. Tôi chỉ có hơn ba phút. Phải, có lẽ năm. Nó đã xảy ra thế nào? Các cuộc đàm phán đã bắt đầu thế nào? Phe đối lập đã được công nhận ra sao? Đã là một quá trình. Ban lãnh đạo, cùng với một bộ phận các nhà hoạt động đảng, đã mất hy vọng rằng chúng tôi có thể đối phó với cuộc khủng hoảng mà không có phe đối lập. Đến năm 1988, đó đã là một xác tín mà ngày càng phổ biến hơn trong một bộ phận ban lãnh đạo và giữa các nhà hoạt động trung ương của đảng. Ngay từ giữa tháng Sáu năm 1988, tại một trong những cuộc họp của Bộ Chính trị, Jaruzelski nói rằng nếu chúng tôi... mà không thể thay đổi xã hội; có thể, phải, xã hội có thể quăng chúng tôi ra, điều đã xảy ra trước đây, nhiều hơn một lần Sau đó, trong tháng Sáu có một phiên họp toàn thể của Bộ Chính trị khi Jaruzelski lần đầu tiên trình bày ý tưởng, quan niệm về Bàn Tròn, nhưng ông nói rằng bàn này nên tập hợp các đại diện của các xu hướng tư duy dân sự đa nguyên và ông nói về tư duy giống-đối lập chứ không phải về phe đối lập, vì đây là hai khái niệm khác nhau. Tuy nhiên, đồng thời, Jaruzelski đã đang trải qua quá trình trưởng thành  được tăng tốc. Tôi đang nói về Jaruzelski không phải bởi vì ông đã là một nhà độc tài mà bởi vì đã tùy thuộc vào ông liệu các cuộc đàm phán Bàn Tròn sẽ xảy ra hoặc sẽ không xảy ra. Không ai khác cả! Không ai khác cả! Tất nhiên, đã có áp lực và cả hai bên đều đã mệt mỏi về tình hình đó và đã muốn thay đổi nó, nhưng ông thực sự đã là người lãnh đạo. Vì vậy vào tháng Mười hai, tình hình đã trở nên kịch tính, và như ông Michnik đã nói, trong tháng Giêng đã rõ ràng là Bàn Tròn sẽ diễn ra. Ở đây tôi sẽ phải không đồng ý một chút với Adam Michnik, người đã nói rằng chúng tôi muốn để tất cả mọi thứ theo cách nó đã là, chúng tôi đã không muốn thay đổi bất cứ điều gì. Điều này không đúng. Phải, không nên coi chúng tôi là những kẻ ngu như vậy. Không, đó không phải là sự thật! Không đúng sự thật! Vào tháng Giêng năm 1989, tại Ủy ban Trung ương, chúng tôi đã thông qua một nghị quyết về chủ nghĩa đa nguyên nghiệp đoàn, mà, nói một cách thực tiễn, đã tương đương với việc công nhận Công đoàn Đoàn kết. Nó đã xảy ra như thế. Và ngoài ra ..., vì Chúa, đúng chúng tôi đôi khi cũng phải quay về với Ngài, rốt cuộc chúng tôi có thể nhìn thấy những gì đang diễn ra xung quanh chúng tôi. Ngoài ra, hãy nhớ rằng Gorbachev quay sang chúng tôi để có được kế hoạch cải cách của chúng tôi, và lần đầu tiên, chúng tôi đã trở thành lực lượng dẫn đầu trong phần này của châu Âu. Và thực ra, liên quan đến Bàn Tròn, lần đầu tiên chúng tôi đã là cường quốc dẫn đầu của khối Soviet, nhưng tất nhiên, đã là quá muộn để đạt được bất cứ gì. Và bây giờ, cuối cùng, vấn đề cuối cùng ... Tôi sắp kết thúc, thưa Giáo sư. Bây giờ có ý kiến cho rằng sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản đã bắt đầu với sự sụp đổ của Bức tường Berlin. Tôi phải nói rằng, phải, với tất cả sự ngưỡng mộ của tôi đối với người Đức, họ đang lừa dối chúng tôi một lần nữa. Họ đã thuyết phục thế giới. Bức tường Berlin và thế thôi, sự bắt đầu của sự sụp đổ. Không, Bàn Tròn là sự khởi đầu và những người khác đã đi theo chúng tôi. Lần đầu tiên trong hàng trăm năm. Đó là lý do vì sao loại hội nghị này mà các bạn đã tổ chức ở đây, theo ý tôi, là cái gì đó xứng đáng lời khen ngợi cao nhất, bởi vì phải ..., tôi muốn mắc vào các cuộc đàm phán Bàn Tròn, mắc vào Michnik và những người khác, và đi vào lịch sử như một trong những người đã nhận thức được sự thực rằng chủ nghĩa xã hội hiện thực đã vượt quá khả năng của riêng nó. Cảm ơn các bạn.
Moderator:
Michael D. Kennedy, Phó Giáo sư Xã hội học, Đại học Michigan
Tôi nghĩ tôi bắt đầu thấy rất hạnh phúc rằng tôi đã không tham gia Bàn Tròn, một phần vì tôi nhận ra rằng mình sẽ không bao giờ là một nhà thương thuyết giỏi nếu sự kiểm soát thời gian của tôi là bất kỳ dấu hiệu nào về khả năng của tôi để có được những gì mà các chúa của tôi bảo tôi làm. Nhưng trong trường hợp này, tôi vui. Trong mọi trường hợp, tôi vui vì chúng ta không phải là nô lệ của thời gian nhưng chúng ta, đáng tiếc, có một số ràng buộc. Diễn giả cuối cùng của chúng ta tối nay là Wieslaw Chrzanowski. Giáo sư Chrzanowski xuất chúng bởi một sự nghiệp đối lập lâu dài và nhất quán đối với sự cai trị cộng sản. Sau khi phục vụ trong kháng chiến chống phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Giáo sư Chrzanowski học luật tại Đại học Jagiellonian, Đại học Warsaw và Trường Kinh tế Warsaw. Ông đã bị bắt năm 1948 và bị kết án tám năm tù vì đã tham gia Liên minh Thanh niên Thiên chúa giáo. Ông đã thành lập Câu lạc bộ Thảo luận Công Giáo Start năm 1957, năm tôi sinh, và đã là một thành viên của Ủy ban Thông tin của Đức Hồng Y Stefan Wyszynski từ năm 1965. Trong những năm 1980, Giáo sư Chrzanowski đã phục vụ với tư cách cố vấn của Đoàn kết và thành viên của Hội đồng tư vấn xã hội của Đức Hồng Y Józef Glemp. Ông là một trong những người sáng lập của Liên minh Thiên Chúa giáo Quốc gia vào năm 1989, và từng là chủ tịch của nó cho đến năm 1994. Giáo sư Chrzanowski đã là Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong năm 1991, Chủ tịch Hạ viện 1991-1993, và Thượng nghị sĩ từ năm 1997. Thưa quý vị, Wieslaw Chrzanowski.
Panellist (diễn giả):
Wieslaw Chrzanowski, Giáo sư Luật tại Đại học Công giáo Lublin, nhà hoạt động Đoàn kết, nguyên thành viên của Hạ viện, Chủ tịch Liên minh Thiên Chúa giáo Quốc gia (1989-1994)
Ông Chủ tịch, quý ông và quý bà kính mến, trong số các khách đến từ Ba Lan, những người cách đây mười năm đã tham gia vào đời sống công cộng, tôi không nằm trong số những người ngồi ở Bàn Tròn, mặc dù tôi đã được mời. Điều này không có nghĩa rằng tôi đã hoàn toàn phản đối quan niệm, ý tưởng về Bàn Tròn, nhưng vì lý do đó tiếng nói của tôi trong khuôn khổ của hội nghị này sẽ có lẽ nghe có vẻ hơi khác. Mặt khác, tôi hoàn toàn phản đối và quan điểm của tôi là tiêu cực khi nói về bất kỳ nỗ lực để xây dựng một huyền thoại về Bàn Tròn, liên quan đến kỷ niệm lần thứ mười của nó. Lịch sử nhìn lại từ mười năm chưa phải là lịch sử; nó là lịch sử trong hành động, và về khía cạnh này, huyền thoại có vai trò riêng của nó để đóng. Hơn nữa, trong thế giới phương Tây đã quen với các quy tắc dân chủ, việc chấp nhận quan điểm này, mô hình này, là dễ dàng. Đối mặt với sự thù địch ngày càng tăng của bầu không khí xã hội, để tránh xung đột và trách nhiệm, phe chính phủ quyết định ngã giá một thỏa thuận với phe đối lập ngoài nghị viện, vì một đối lập nghị viện đã không tồn tại, về sự chuyển giao quyền lực được dàn xếp nào đó. Phe đối lập, lần lượt, đồng ý với điều này bởi vì nó nhận thức được rằng phe chính phủ vẫn giữ những cách để giải quyết xung đột bằng vũ lực, và nó không muốn mạo hiểm một cuộc ẩu đả như vậy. Tuy nhiên, tại Ba Lan của những năm 80, tình hình đã khác. Nó đã gần hơn với tình hình của năm 1918, khi Ba Lan lần đầu tiên trong thế kỷ XX, sau hơn một trăm một năm bị giam cầm, đã lấy lại được tự do của nó. Tại thời điểm đó, tại một số phần của đất nước, chính quyền chiếm đóng đàm phán các hiệp định đầu hàng trong khi ở những nơi khác, đã cần chiến đấu, chẳng hạn như trong cuộc nổi dậy Wielkopolska hoặc bảo vệ Lvov. Việc chuyển giao quyền lực một cách hòa bình chắc chắn đã là có lợi hơn. Mười năm trước, phe cộng sản đã gần hơn, tôi nhấn mạnh rằng đã gần hơn nhưng không giống hệt, với vị trí của những kẻ chiếm đóng Ba Lan trong thời gian được đề cập hơn là với phía chính phủ trong một nước dân chủ, mặc dù phe này bao gồm những người Ba Lan. Nó nhận được quyền lực - đúng đã trước đây lâu rồi - như sự phong ban từ Liên Xô và nó có thể thi hành quyền lực nhờ có sự ủng hộ của Liên Xô. Các hành động của nhiều thành viên của phe chính phủ đã được thúc đẩy bởi sự nghiệp ý thức hệ, nhưng chúng đã là sự nghiệp quốc tế hơn là sự nghiệp Ba Lan. Tuyên bố của Tướng Jaruzelski từ thập niên 80 minh chứng điều đó. Ông nói: "Chúng ta sẽ bảo vệ chủ nghĩa xã hội như chúng ta bảo vệ độc lập." Thực ra, mọi chủ nghĩa đế quốc đều tìm sự ủng hộ trong loại nào đó của ý thức hệ phổ quát. Ngay cả bọn Nazi (Quốc xã) trong Thế chiến II, trong khi hình thành các đội quân từ các sắc tộc khác nhau ở Tây Âu, đã xuất bản ấn phẩm elite riêng của nó với tựa đề châu Âu, Quốc gia. Vì thế để hiểu sự sụp đổ của hệ thống nô dịch hóa này vào năm 1989, trước hết, cần phải phân tích sự phát triển của các lực lượng xã hội phản kháng và các phương pháp áp dụng các lực lượng đó. Bàn Tròn có thể được phân loại như một trong các phương pháp như vậy. Các lực lượng này đã bị gọi nhầm là phe đối lập, và vẫn bị coi như bất hợp pháp, trong khi phe đối lập là một thành phần không thể thiếu ... chỉ của một hệ thống dân chủ. Sau chiến tranh, những người chống lại hệ thống áp đặt đã được nhắc tới lần đầu tiên như bọn phản động, và trong các nhà tù Stalinist, chúng tôi bị phân loại là tù nhân chống nhà nước. Tù nhân chính trị như một loại đã không tồn tại. Vì vậy, sự chống đối của những ngày này, còn được gọi là vô thần, là một sự tương đương của các nhà bất đồng chính kiến ở Liên Xô. Ba mô hình kháng cự của một quốc gia bị giam cầm, mà đã tiến hóa ở Ba Lan trong thế kỷ XIX và XX, đã bảo tồn giá trị của chúng trong các năm 80. Mô hình nổi dậy (khởi nghĩa) đã tìm thấy biểu hiện của nó trong lời kêu gọi tổ chức các cuộc biểu tình tưởng nhớ ngày Công đoàn Đoàn kết bị tước tính hợp pháp, trong lời kêu gọi của một số nhà lãnh đạo gửi từ trại giam để sử dụng sức mạnh chiến đấu chống lại chính quyền, và lên kế hoạch bãi công toàn quốc. Theo kịch bản này đã báo hiệu về sự nghiền nát thô bạo sự đối kháng dân sự bởi các lực lượng an ninh của chế độ và về chiến thắng của cái gọi là cánh "bê tông" trong đảng cộng sản, cùng với cảnh sát mật. Tuy nhiên, mô hình phòng thủ chủ động đã là mô hình chiếm ưu thế trong xã hội và nó bao gồm việc gây áp lực nào đó lên chế độ cầm quyền mỗi ngày, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, và kéo nhiều người nhất có thể để tham gia vào sự kháng cự này, trong khi tránh sự va chạm trực diện. Đi theo mô hình này cũng đã là sự phát triển nhanh chóng của báo chí bí mật, được công bố bất hợp pháp, không có kiểm duyệt, và được ủng hộ bởi các cấu trúc Đoàn kết đã bị tước tính hợp pháp tại các nơi làm việc. Giáo Hội cũng đã đóng vai trò lớn, thường thông qua các tuần lễ được tổ chức về văn hóa Kitô giáo, các Thánh Lễ hiến dâng cho tổ quốc với sự tham dự của nhiều ngàn người, phát triển công tác mục vụ giữa các nông dân và những người lao động, và vv. Những hành động này chủ yếu do các cha xứ hướng dẫn. Các bài phát biểu của Đức Hồng Y Glemp thường nghe có vẻ hơi khác, nhưng trong trường hợp có mối đe dọa đối với các linh mục giáo xứ, các bề trên của họ đã bảo vệ họ. Và các bề trên đó đã bị các nhà chức trách cộng sản ve vãn. Tuy vậy, đã có một số thương vong, bao gồm cả cha Popieluszko và một số thành viên khác của giới giáo sĩ. Trong lĩnh vực này, chúng ta không thể đánh giá quá cao tầm quan trọng của hai chuyến hành hương của Đức Giáo hoàng John Paul II tới Ba Lan. Giáo trưởng Ba Lan và Ban Thư ký của Hội đồng Giám mục ủng hộ mô hình tương tác trực tiếp với các nhà chức trách nhằm đạt được những nhượng bộ mở rộng biên độ tự do. Điều này đã dẫn đến, ví dụ, việc khôi phục các quỹ như các định chế trong hệ thống pháp luật, bao gồm cả nỗ lực thất bại để thành lập Quỹ của Giáo trưởng để Trợ giúp các Nông dân Riêng lẻ và việc chuẩn bị làm luật hội bởi các chuyên gia của chính phủ và Giáo Hội mà đã cho phép lập các hiệp hội tự nguyện. Các nhà chức trách đã sợ việc phục hoạt Công đoàn Đoàn kết vì tính quần chúng của nó. Trong một thời gian dài, họ đã sợ việc này, vì vậy thay vào đó, họ đã đề nghị các hiệp hội phân cấp. Các nhà chức trách, cảm nhận thấy sự gia tăng của sự kháng cự xã hội và sự suy yếu của sự ủng hộ từ phía đông, đã tìm cách để giảm sự bất an, khêu gợi khả năng hòa giải. Các nỗ lực này bắt đầu với PRON [Patriotyczny Ruch Odrodzenia Narodowego], Phong trào Yêu nước Phục sinh Dân tộc, chỉ mang tính bề ngoài, nhưng sau đó các đối tác cho các cuộc đàm phán cao hơn đã được tìm kiếm một cách nghiêm túc bên trong hàng ngũ của phe đối lập. Hội đồng Thống nhất với Tướng Jaruzelski đã là một cách để làm điều đó nhưng nhân vật nổi tiếng duy nhất từ phe đối lập mà họ đã xoay xở để lôi kéo được đã là luật sư Sila-Nowicki. Tương tự, nhóm tư vấn tại Hạ viện, gồm vài tá chuyên gia, bất chấp việc mời nhiều người từ các giới độc lập, hóa ra đã không mang tính đại diện. Thất bại khác đã là nỗ lực để lập ra một chính phủ liên hiệp bao gồm cả các thành viên của phe đối lập. Cuối cùng, khi các nhà chức trách nhận ra rằng các bước nhỏ, giả vờ của họ để lôi kéo một số nhà bất đồng chính kiến, một số người phản đối vào quỹ đạo quyền lực đã thất bại, và áp lực xã hội đã ngày càng tăng, - áp lực xã hội không có nghĩa là Đoàn kết hoặc bất cứ thứ gì, mà là một áp lực của xã hội như một tổng thể - các nhà chức trách đã quyết định thành lập Bàn Tròn. Ý định của họ đã là cho phép bộ phận nào đó của phe đối lập cùng-cai trị theo cách hạn chế và được kiểm soát và để tự do hóa hệ thống ở một mức độ nhất định. Và có lẽ việc chấp nhận tái hợp pháp hóa Đoàn kết đã bị ảnh hưởng bởi sự suy yếu của cấu trúc của Đoàn kết. Có một số dấu hiệu, một số tài liệu chứng minh rằng đã có những đánh giá như vậy về tình hình, không chỉ ở bên chính quyền, mà cả giữa các giới đối lập nữa. (Chuyển băng)... Việc khởi động sáng kiến mới này đã cho các nhà chức trách một cơ hội để chọn trước các thành viên đối lập thích hợp để trở thành đối tác trong các cuộc đàm phán. Chính thức mà nói, đối tác chính đã là Walesa, lãnh đạo huyền thoại của Công đoàn Đoàn kết, và những người được ông ta chỉ định. Nhưng thực sự trong những ngày đó các lựa chọn đã được các ông Geremek và Mazowiecki chọn cho Walesa. Ở một mức độ lớn, họ đã muốn các đối tác thuộc dòng cánh tả, thường là các đồng chí trước đây trong đảng hay người Công giáo từ giới mà trước đây đã đưa ra nhượng bộ để hoạt động chính thức. Phe chính phủ đã không thể luôn hiểu rất kỹ các đối tác tương lai này. Ví dụ tốt nhất cho điểm này là họ đã cấm sự tham gia của Ông Michnik ở đây và ông Kuron lâu đến thế nào. Về phía đối lập, việc tham gia vào các cuộc đàm phán đã được thúc đẩy bởi triển vọng mở rộng rõ ràng biên độ tự do, bởi sự phục hồi tính hợp pháp của Đoàn kết, và bởi việc ngăn ngừa loại va chạm trực diện, trước làn sóng ngày càng tăng của các cuộc biểu tình, trong tình hình khi khả năng tổ chức và kỹ thuật của bộ máy đàn áp của chế độ vẫn còn đáng kể. Sự hăm dọa về sự can thiệp có thể của Liên Xô cũng đã có tầm quan trọng nào đó bởi vì phía đối lập đã ít quen thuộc với các khả năng can thiệp của hàng xóm phía Đông của chúng tôi đã bị xói mòn như thế nào. Cuối cùng, đối với phe đối lập cánh tả, mà là một thuật ngữ hơi bị đơn giản hóa, thì đó là một cơ hội để loại bỏ hoặc để hạn chế ảnh hưởng của cánh hữu của phe đối lập, phe đối lập bất hợp pháp, ý tôi muốn nói. Đã có những sự e sợ rằng một khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, vũ đài chính trị của chúng ta sẽ bị chi phối bởi các yếu tố dân tộc chủ nghĩa và dân chủ thiên chúa giáo. Những e sợ như vậy, không có căn cứ như đã hóa ra, nói chung đã được bày tỏ trong các năm 80 trong Krytyka, tờ báo ngầm chủ yếu của phe đối lập cánh tả. Trong việc thiết lập các cuộc đàm phán Bàn Tròn, Giáo Hội đã đóng một vai trò quan trọng, đặc biệt là Đức Giám mục Orszulik, hiện diện tại đây. Giáo Hội tin rằng, để duy trì hòa bình trong xã hội, một sự rút lui khỏi cái được gọi là chủ nghĩa xã hội hiện thực nên theo từng giai đoạn. Bây giờ, là thời gian để bày tỏ ý kiến của tôi về những gì đã có thể xảy ra giả như đã không có Bàn Tròn. Hãy để tôi nhấn mạnh rằng đây là một ý kiến ex post facto [sau khi sự việc đã xảy ra], nhìn từ triển vọng hiện tại của chúng tôi, mà những người đã tham gia các cuộc đàm phán đó đã không thể có, và khi dính líu đến chính trị, người ta không được gây nguy hiểm ... không được đánh bạc. Ý kiến về vấn đề này sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ như thế nào đến việc chúng ta đánh giá ra sao về quan trọng của Bàn Tròn. Tôi không có ý nói về sự đánh giá những người tham gia mà là việc đánh giá ý nghĩa của Bàn Tròn.  Phi lý để cho rằng chúng ta đã có thể phải đối mặt với nội chiến. Trong tình huống khi sự can thiệp từ phương Đông đã là ảo tưởng rồi, và các tướng lĩnh đã nhận thức được về điều đó, quân đội sẽ đứng về phía dân tộc. Ngay cả trong năm 1981, các bộ chính trị của đảng cộng sản Ba Lan và Liên Xô là không chắc chắn về lòng trung thành của quân đội Ba Lan. Có dấu vết của việc này trong các nghị định thư của các bộ chính trị, mà chúng tôi đã có thể nhìn thấy một năm rưỡi trước đây ở Jachanka, tại một hội nghị thú vị khác nơi Nguyên soái Kulikov gặp Tướng Jaruzelski, ông Mazowiecki, ông Pipes, và ông Brzezinski. Tôi cũng đã có cơ hội tham gia hội nghị đó. Thế nhưng mấy tháng sau Bàn Tròn, cùng với sự sụp đổ của Bức tường Berlin, chế độ cộng sản khác ở trung Âu, trừ Romania, đã sụp đổ một cách hòa bình. Bàn Tròn đã không gây ra sự thối rữa trong cấu trúc đế quốc của Liên Xô; đúng hơn nó đã là hệ quả của sự thối rữa đó. Nó đã không phải là cái điềm báo trước sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản như một hệ thống kinh tế xã hội. Sự kết thúc của hệ thống đã được chính phủ của Thủ tướng Rakowski cảm nhận thấy, chính phủ đã tiến hành các bước theo một hướng mới. Tuy nhiên, nó đã làm tăng tốc, đã tăng tốc chỉ vài tháng sự thay đổi đội gác quyền lực ở Ba Lan, và nó đã ảnh hưởng đáng kể nhưng không quyết định đến cách thức chuyển giao quyền lực. Mặt khác, Bàn Tròn đã tạo ra lợi thế có thể đo lường được, mặc dù tại thời điểm đó không có thể dự đoán được hoàn toàn, cho các đối tác tham gia. Đối với những người cầm quyền trong những ngày đó, các kết quả của cuộc bầu cử năm 1989 đã gây sửng sốt. Khi ấy, trong số hạn ngạch một phần ba, chẳng ứng cử viên duy nhất nào của chế độ đã trúng cử. Đó là cách thái độ của xã hội Ba Lan, được tạo ra bởi các chính sách phòng thủ chủ động, đã tạo ra kết quả. Đó là lý do vì sao đa số hai phần ba ở Hạ viện, được bảo đảm bởi các thỏa thuận Bàn Tròn, đã thất bại. Trong bầu không khí này, các đảng tay sai đã đánh bạo chống lại bá quyền của đảng cộng sản và chính phủ Mazowiecki đã được tạo ra, trong khi Tướng Jaruzelski đã không cố gắng sử dụng điều khoản hiến pháp, được Bàn Tròn bảo đảm, cho phép tổng thống giải tán quốc hội với bất kỳ cớ gì. Một điều khoản như vậy đã tồn tại cho đến thời điểm khi Hiến pháp Nhỏ được thông qua. Hơn thế nữa, ít hơn một năm rưỡi sau, Jaruzelski đã từ bỏ chức vụ tổng thống, mặc dù ông đã được bảo đảm một nhiệm kỳ năm năm. Vì những lý do đó, thời đại của chủ nghĩa xã hội hiện thực, trong công luận, đã kết thúc vào ngày 04 tháng 6, vào ngày bầu cử. Và ngày thỏa thuận Bàn Tròn đã thực sự không được xã hội quan sát. Tôi thực sự đã nhận ra điều đó nhờ Đại học Michigan, liên quan với hội nghị ngày hôm nay. Tuy nhiên, như một kết quả của thỏa thuận được thảo luận, phe chính phủ trước tháng Sáu, thay cho việc đầu hàng và hình phạt vì quá khứ, đã tìm thấy chỗ của nó một cách êm dịu bên trong trật tự mới của nền dân chủ nghị viện, và giữ lại các tài sản vật chất và tổ chức của nó. Công thức được chấp nhận về một nhà nước pháp luật thường được dùng như một nơi trú ẩn khỏi sự trừng phạt tình trạng vô luật pháp. Trong số các lợi ích của đối tác khác là khả năng đưa ra các quyết định nhân sự liên quan đến một phần ba số ghế được thương lượng của Hạ viện năm 1989. Các quyết định đã được xử lý theo cách, như ông Michnik đã đề cập ở trước, sao cho rất nhiều ở bên trong giới của mình, mà đã bị chỉ trích nặng nề thậm chí từ bên trong, thực sự đến mức mà ông Mazowiecki và cả ông Hall có mặt ở đây đã từ chối để trở thành ứng cử viên. Liên quan đến việc tiếp quản phương tiện truyền thông đại chúng quan trọng, là đủ để nhắc đến Gazeta Wyborcza, hiện nay là tờ báo của ông Michnik, mà sự xuất bản nó đã là một sự nhượng bộ được dàn xếp tại Bàn Tròn từ chính phủ cho Đoàn kết. Tôi sẽ không đi tiếp với danh sách. Như vậy, ngoài truyền thuyết của nó, các cuộc đàm phán Bàn Tròn đã là quan trọng trong chính trường Ba Lan. Bên trong phạm vi này, không nghi ngờ gì, chúng có ý nghĩa. Tuy nhiên, những cuộc đàm phán đã không có tầm cỡ phổ quát. Sẽ là một ảo tưởng để tìm kiếm sự tương tự với sự suy tàn của các chế độ độc tài Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, hoặc Chile. Ở nước ta, đó đã là một hệ thống được áp đặt từ bên ngoài, và nó có thể tồn tại chỉ với sự ủng hộ bên ngoài. Tại các nước khác này, các hệ thống đã là bản địa và sự suy tàn của chúng cũng đã thế. Đây là lý do tại sao thật khó để tưởng tượng, đáng tiếc, rằng công thức của chúng tôi có thể hữu ích trong việc giải quyết những sự kiện bi thảm ở Nam Tư cũ, có nghĩa là, các cuộc xung đột hiện nay ở Kosovo. Cảm ơn các bạn.
Moderator:
Michael D. Kennedy, Phó Giáo sư Xã hội học, Đại học Michigan
Ba quý ông này đã cung cấp cho chúng ta những đánh giá rất quan trọng và rất khác nhau về vị trí của các cuộc đàm phán Bàn Tròn trong lịch sử Ba Lan và thế giới. Đây là như chúng tôi dự định. Tôi rất vinh dự đã có thể ngồi trên sân khấu với họ. Tôi hài lòng hơn nữa rằng chúng tôi sẽ có thể đưa cả các bài thuyết trình này cũng như tất cả các thảo luận tiếp theo trong hội nghị này vào một kho lưu trữ sẽ được dành riêng cho việc thảo luận về tầm quan trọng và các hệ quả của Bàn Tròn Ba Lan. Tất nhiên, có, thậm chí có nhiều cách diễn giải về Bàn Tròn và chúng tôi đã sắp xếp hội nghị này, sao cho ít nhất một số trong những đánh giá thêm đó có thể được lắng nghe. Chúng tôi đã mời một nhóm quý ông quý bà rất xuất chúng những người sẽ góp phần đáng kể vào sự hiểu biết của chúng ta về thời kỳ đó không chỉ ở Ba Lan mà còn ở Hungary và phần còn lại của Đông Trung Âu, Trung Quốc, và ở Cuba, và trong quan hệ Mỹ Cuba. Tóm lại, tối nay chỉ là khởi đầu.
Vì chỉ là một sự khởi đầu, tôi mời tất cả các bạn trở lại vào Thứ bảy, khi chúng ta xem xét Bàn Tròn, nói chung, một lần nữa. Và lưu ý, tuy nhiên, về những bài học mà chúng ta đã học được từ chính hội nghị. Tôi rất tiếc phải nói rằng vì lý do khác nhau, Thủ tướng Tadeusz Mazowiecki sẽ không thể tham gia cuộc họp đó. Tham gia với Tổng thống Kwasniewski và Đức Giám mục Orszulik sẽ là Adam Michnik, Lech Kaczynski, và Grazyna Staniszewska.
Đăng ký cho phần học thuật của hội nghị, tôi có thể nói, phần học thuật sâu hơn của hội nghị vào Thứ năm và Thứ sáu, đã đầy mất rồi, tôi xin lỗi để nói, và tôi vui mừng để nói, cho thấy sự quan tâm thật đáng kể. Đối với những người trong số các bạn những người đã đăng ký cho Thứ năm và Thứ sáu, chúng tôi mời các bạn trở lại vào ngày mai để xem xét hoàn cảnh, những sự bất ngờ, và các hệ quả của các cuộc đàm phán Bàn Tròn năm 1989. Chúng tôi sẽ gặp các bạn còn lại vào thứ Bảy.
Tôi có thể tưởng tượng không có cách nào hay để kết thúc cuộc thảo luận tối nay hơn là bằng cách yêu cầu tất cả chúng ta trở lại trang đầu tiên của chương trình. Tôi muốn kết thúc phiên khai mạc này bằng cách đọc một phần của phước lành mà Đức Giáo Hoàng John Paul II đã ban cho tất cả chúng ta những người tham gia hội nghị này. Quốc vụ khanh của Ngài đã viết:
"Đức Thánh Cha hy vọng rằng sự suy ngẫm được đào luyện này về các khía cạnh tinh thần, văn hóa và chính trị của quá trình chuyển đổi hòa bình của Ba Lan dân chủ sẽ làm nổi bật nền tảng cuối cùng của chúng trong một mệnh lệnh đạo đức phát sinh từ tầm nhìn về phẩm giá vốn có của con người và thiên hướng siêu việt của con người đến tự do trong việc theo đuổi chân lý. Ngài tin tưởng rằng công việc của Hội nghị sẽ kêu gọi sự chú ý cần thiết đến tính ưu việt của sự đối thoại kiên nhẫn hơn tất cả các hình thức bạo lực trong giải quyết xung đột và xây dựng một trật tự xã hội công bằng và nhân đạo."
Đấy cũng là hy vọng của chúng ta nữa. Cảm ơn sự chú ý của các bạn tối nay. Tôi muốn cảm ơn tất cả những người đóng góp cho chương trình tối nay. Cảm ơn các bạn rất nhiều và tôi chúc tất cả các bạn một đêm ngon giấc. Dziekuje Bardzo, milego wieczoru. (Dịch: Cảm ơn rất nhiều. Chúc buổi tối tốt lành).
/ Hết Phần 1/


[1]Cũng có thể hiểu là [công đoàn] Đoàn kết (?). Trong bản dịch này solidarnosc (solidarity), với chữ s thường, được dịch là hiệp thông (đoàn kết) với tư cách là một tư tưởng trong Kitô giáo; và Solidarnosc (Solidarity), với chữ S hoa, thường được dịch là Đoàn kết với tư cách là một phong trào đối lập ở Ba Lan có xuất xứ từ Nghiệp đoàn Đoàn kết [trừ 3 lần trong đoạn trích này].
[2] Cuốn Między panem a plebanem (Giữa bạn và linh mục) của Adam Michnik, Józef Tischner và Jacek Żakowski.
[3] Albin Siwak (1933-) ủy viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản Ban Lan trong các năm 1980, thuộc phe cứng rắn kiên quyết chống lại Công đoàn Đoàn kết.
[4] Jery Urban (1933-) nhà báo, đã từng bị chính quyền cộng sản cấm hoạt động sau 1957. Từ tháng 8-1981 đến tháng 4-1989 Urban đã là người phát ngôn của Chính phủ và đã tham gia Bàn Tròn.
[5] Việc đứng liên danh trên cùng một danh sách bầu cử với những người khét tiếng như Siwak và Urban có thể không hay ngay cả trong bầu cử nửa tự do như vậy.
[6] Kádár János (1912-1989), tổng bí thư đảng cộng sản Hungary từ 1956 đến khi về hưu năm 1988.
[7] Leopold Okulicki (1898-1946) tướng Quân đội Ba Lan chiến đấu chống phát xít sau đó bị an ninh Soviet bắt, bỏ tù và giết.
[8] Làng Madalelka gần Warsava là nơi đã diễn ra các cuộc gặp không chính thức chuẩn bị cho Bàn Tròn Ba Lan và các cuộc họp không chính thức khi Bàn Tròn gặp trắc trở.
[9] Władysław Gomułka (1905-1982), đảng viên Đảng Cộng sản Ba Lan từ 1926; Bí thư thứ nhất Đảng Đảng Lao động Ba Lan (1943-1948);  Bí thư thứ nhất Công nhân Thống nhất Ba Lan (1956-1970).
[10] Bolesław Bierut (1892-1956), Chủ tịch Hội đồng Nhân dân (1944-1947); Chủ tịch Cộng hòa Ba Lan (1947-1952); Tổng bí thư của Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan (1948-1956); chết bí ẩn tại Moscow.
[11] Mieczysław Moczar (1913-1986) đảng viên đảng cộng sản Ba Lan theo cánh cực đoan dân tộc. Hoạt động du kích chống phát xít nên trong các năm 1960 ông đứng đầu phe “du kích” trong đảng. Bộ trưởng Bộ nội vụ (1964-1968) tướng Moczar khét tiếng vì vụ đàn áp sinh viên tháng 3-1968 mang nặng tính bài Do Thái dẫn đến làn sóng di tản của nhiều người Ba Lan gốc Do thái. Ủy viên BCHTW (1965-1981), ủy viên BCT (1970-1971 và  1980-1981).
[12] Leszek Kołakowski (1927-2009) triết gia Ba Lan. Đảng viên Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan từ 1947. Năm 1957, một năm sau vụ Tháng mười Ba Lan 1956 ông viết 4 bài phê phán gáo điều Soviet-Marxist. Ông mất việc làm, bị đuổi ra khỏi đảng. Từ 1968 ông dạy ở nhiều Đại học nước ngoài. Các công trình của ông bị cấm ở Ba Lan nhưng vẫn được in bí mật và đã có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của phe đối lập.
[13] Thư ngỏ gửi Đảng được viết năm 1964. Cả Kuron và Modzelewski đều là đảng viên cộng sản, sau thư ngỏ bị đuổi ra khỏi đảng, năm 1965 bị bắt. Hai ông đã lập ra Ủy Ban Bảo vệ Công nhân (KOR).
--------------
/ BVB post lên trang từ nguyên bản E.Mail của TS.Nguyễn Quang A và TS.Tô Văn Trường)
(Còn tiếp)

1 nhận xét:

  1. Khánh Huyền Tranglúc 14:32 4 tháng 6, 2013

    Một bàn tròn cho Việt Nam lúc này là giải pháp tốt đẹp nhất, để tránh bùng phát bạo lực đổ máu đau thương thêm nữa cho dân tộc đã chịu tổn thất lớn lao qua mấy cuộc chiến tàn khốc nửa cuối thế kỷ XX.
    Chủ nghĩa cộng sản phản khoa học - lá chắn lạc hậu cho những kẻ thối tha mục rữa đang làm VN ngày càng tụt hậu, chia rẽ, mất dần lợi thế được loài người văn minh ủng hộ trong cuộc đương đầu với nhà cầm quyền bành trướng phương Bắc. Lãnh đạo ĐCSVN cần sớm tỉnh táo nhận ra con đường tất yếu, tránh hậu họa chẳng tốt đẹp cho bản thân và con cháu

    Trả lờiXóa