QTXM- Bạn đọc thân mến. NXB Tri Thức chỗ anh Chu
Hảo vừa ấn hành cuốn sách mới của nhà văn Tô Nhuân Vỹ có đầu đề rất luận bàn :
BẢN LĨNH VĂN HÓA. Đây là những vài viết, tiểu luận nhà văn viết trong nhiều năm
qua, rất tâm huyết, gửi NXB nào họ cũng “sợ”, may có Tri Thức cuốn sách mới đến
với bạn đọc.
Sau đây xin trích phần chính nhất của cuốn sách.
Bạn đọc có thể nhận ra ở đây một Tô Nhuận Vỹ sắc sảo, dũng cảm
và tâm đắc.
Nhà văn Việt Nam : Đổi mới và Hội nhập
… 3. Văn học trước thách thức tụt hậu
…..Về
văn học, nhà thơ Kevin Bowen, Giám đốc Trung tâm William Joiner, Trung tâm đã
có quan hệ với Hội Nhà văn và nhiều nhà văn tiêu biểu của Việt Nam trong
hai chục năm qua, khi trả lời tôi về vấn đề dân chủ trong văn học Việt Nam, anh
nói ngay: “Có dân chủ hơn thời kỳ 1988-1992 (thời kỳ mà anh cho rằng có những
tác phẩm xuất sắc nhất sau năm 1975 - TNV), nhưng để có tác phẩm hay lại là
chuyện khác!”.
Nhưng trong sự đổi thay còn chừng mực đó,
mươi năm trở lại đây, văn học Việt Nam bỗng như “phanh kít” lại, mà nhiều
ngườì dè dặt hơn nói là “chững lại”. Dừng lại trong lúc chung quanh người
ta đi tới thì gọi là tụt lại, là tụt hậu chứ còn gọi thế nào nữa.
Tuy năm này năm kia vẫn có những tập sách đọc được nhưng không có những cuộc
tranh luận thẳng vào những vấn đề gay gắt nhất của đời sống văn học, những tác
giả và tác phẩm có tính “khai phóng” tác động mạnh mẽ đến khát vọng vươn lên
của xã hội như hơn mười năm trước. Không nhìn thẳng vào sự thật này thì sự tụt
hậu sẽ còn tụt dài và tụt xa nữa. Vài dẫn chứng cho nhận định này của chúng tôi.
Về chất lượng tác phẩm, trước Đại Hội Nhà văn
lần thứ 7 vừa qua, Nguyễn Duy đã phản ảnh đúng suy nghĩ của nhiều người khi
nói: “Chúng ta đang có một thực tế văn chương rất mâu thuẫn. Những cái cũ kỹ
giáo điều thì vẫn cũ kỹ giáo điều như cũ, người đọc chán rồi, không muốn tiếp
nhận nữa. Mặt khác, lại xuất hiện những cái xa lạ, những cái u ơ, ú ớ, ù ờ thần
kinh, người đọc không thể tiếp nhận nổi. Cả hai thái cực ấy làmngười đọc vừa
chán ngán, vừa lo ngại. Người ta ít quan tâm đến văn học đến mức tôi có cảm
giác người ta chả cần nhà văn nữa” 1
Trong tổng kết “Văn học 5 năm đầu thế kỷ” củaBan
chấp hành Hội Nhà văn trình bày tại Đại hội, đã phải công nhận một thực trạng:
“Văn học ta tiếp tục có những tác phẩm hay nhưng đó là những cái hay theo những
kiểu dạng đã từng có, đã quen thuộc, còn ít những cái hay chưa từng có, khác
thường, có tính mở đường”, trong lúc “thị trường văn học tiếp tục bị thu
hẹp, văn hoá đọc chưa lấy lại đà phát triển của nó trước sự lên ngôi của văn
hoá nghe nhìn” và chính thực trạng đó khiến xã hội mất lòng tin vào nhà văn.
“Nhà văn vốn đã cô đơn, ngày nay càng cảm thấy cô đơn hơn trước dòng thác của
các cuộc tìm kiếm lợi ích.” Trong một cuộc trao đổi với tôi trước Đại Hội Nhà
văn lần thứ 7, nhà thơ Hữu Thỉnh, Tổng thư ký Hội khoá 6 (và nay là Chủ tịch
Hội Nhà văn Việt Nam khoá 7) đã nói một cách khẳng định và văn hoa về chất
lượng hạn chế của tác phẩm văn học thời gian qua là “độ kết tinh chậm” và
nhà văn đang “thiếu khát vọng sáng tạo”để vượt qua các trở lực khách quan và
trở lực trong chính mình.
Tôi đồng ý với Hữu Thỉnh là thiếu khát vọng cao
cả về Chân-Thiện-Mỹ thì nhà văn không thể có được tác phẩm hay về con người.
Nhưng đó chỉ mới nói về yếu tố chủ quan của nhà văn. Đó là yếu tố cần nhưng
chưa đủ. Yêu cầu khách quan cần thiết, quan trọng nhất đối với nhà văn, tôi tin
rằng Hữu Thỉnh cũng hiểu như tôi, nhưng anh không nói tới, là dân chủ dành cho
sáng tạo văn học đã thay đổi quá chậm, có thể nói là lĩnh vực thay đổi chậm
nhất so với nhiều lĩnh vực đã thay đổi ở Việt Nam trong thời gian qua.
Tưởng đã xa rồi cái thời còn ấu trĩ học theo Trung Quốc “chống phái hữu” khiến
bao tài năng tâm huyết văn nghệ tan nát sự nghiệp và cuộc đời trong vụ Nhân văn
Giai phẩm, tưởng đã xa rồi cái thời mới chạm tới tự do sáng tạo và bày tỏ sự
ủng hộ sáng tạo ở một số tác phẩm mới mà Nguyên Ngọc và chúng tôi đã bị cách
chức, vậy mà mới bước vào thế kỷ XXI, đã có “vụ” Bùi Ngọc Tấn, “vụ” Nguyễn
Khải, “vụ” Nguyễn Huy Thiệp cũng với những cái mũ từ nửa thế kỷ trước chụp
xuống đầu nhà văn: bôi nhọ chế độ, bôi nhọ nhân dân…!
Trong một lần ngồi ăn sáng với Nguyễn Quang Sáng
ở một nhà vườn trên đường Võ Thị Sáu, anh nói với tôi bằng cái giọng “rất Nam
Bộ”:“Mày hỏi về dân chủ trong văn học hả? Theo tao, có tiến bộ. Ngày trước cho
dù trong bụng rất thương nhưng không ai dám tới gần, có khi tránh mặt luôn, nếu
thấy mấy cha Nhân văn Giai phẩm. Bây giờ, sách của Bùi Ngọc Tấn vừa bị tịch
thu, chả đang bị kêu lên gọi xuống, nhưng tới Đại Hội Nhàvăn, anh em vẫn xúm
xít vui vẻ với chả, chẳng sợ ai ráo! Hoặc ngày trước báo Nhân dân đăng bài khen
chê cuốn sách nào thì các báo lo mà có bài khen chê theo. Bây giờ thì khác rồi:
Mày là mày, tao là tao!” -
Nguyễn Quang Sáng trầm ngâm, như chia sẻ những
suy nghĩ của tôi – “Nhưng chậm quá, quá chậm! Đến như cha Nguyễn Khải mà còn bị
nhấc lên đặt xuống thì bao giờ mới có cởi mở, mới có dân chủ thực sự cho
mọi nhà văn? Khi biết tao sẽ viết về Huỳnh Phú Sổ, ông Võ Văn Kiệt nói sao mày
biết không? Ổng dặn ‘Viết cho kỹ nha. Đúng thì nói đúng, sai thì nói sai. Thua
thì nói là thua, thắng thì nói là thắng, chứ chẳng lẽ cứ thắng hoài!’ Có
nghĩa là sao? Chính ổng cũng ngán cái kiểu viết ta thì chỉ có thắng, địch
chỉ có thua! Mày biết vì sao có những tay cựu chiến binh Mỹ viết về chiến
tranh hay hơn nhiều anh em mình không? Nó THỰC và DÁM viết."
Bùi Ngọc Tấn vừa có phát biểu nhân cuốn Rừng
xưa xanh lá vừa được giải thưởng năm 2004 của Hội Nhà văn: “Được giải tôi
rất vui. Niềm vui của tôi chủ yếu ở chỗ việc trao giải cho tôi thể hiện
cái nhìn cởi mở hơn về nhân thân tác giả, sự công nhận những mảng
đời sống khác của hiện thực” 2
Hai mươi sáu năm sau, đọc lại “Đề dẫn” vẫn
thấy cái mới, cái mạnh của nó. Nó mới và mạnh so với chính báo cáo
chính thức tại Đại Hội Nhà văn lần thứ 7 vừa qua. Nó mạnh và mới bởi những vấn
đề căn cốt nhất mà nó dũng cảm đề cập tới chính là vấn đề cốt tử
của sự tồn tại và phát triển của nền văn học: tự do cho tìm tòi sáng tạo, phải
“bảo hiểm”, động viên nhà văn phản ảnh những đau khổ của con người,
lên án mạnh mẽ những quan niệm cũ kỹ đã trói cả một nền văn học trong nhiều năm
tháng… Những điều đó được đề cập mờ nhạt, hoặc tránh né, trong báo cáo
gần 30 năm sau.
Tổ chức của Hội Nhà văn vẫn giữ nguyên mô
hình và hoạt động của 50 năm trước. Bình thường thì tổ chức nhà văn là tổ
chức cần và có thể xã hội hoá mạnh và sớm nhất. Tuy nhiên, do đặc điểm
phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và tiến hành hai cuộc
chiến tranh giành độc lập và thống nhất đất nước, Hội Nhà văn từ lâu đã
là một thành viên của tổ chức cách mạng, nên việc “bao cấp” cho hoạt động
của Hội là tất nhiên và bình thường. Nhưng, sau chiến tranh, việc duy trì
nửa thế kỷ “bao cấp”, “bao cấp” từ biên chế, lương tiền, kính phí bình
thường và các giải thưởng, cả tiền ăn ngủ bồi dưỡng lúc ngồi sáng tác, lo cho
từ nhà cửa, xe cộ cho đến hệ thống chức quyền nhà văn, “lo” luôn cả chuyện ai
vào Ban chấp hành, ai giữ ban này bệ nọ của Hội, đúng là “bao trọn gói”… Lâu
rồi, chính Hội cũng luôn chờ đợi những thứ, những cung cách “bao cấp” đó mà
không có ý tưởng và quyết tâm bằng chính từ sức mình để tồn tại và
trưởng thành. Chẳng khác nào một người con đã ba bốn mươi tuổi, lại đã có
vợ có con rồi mà cứ đèo queo ở với cha mẹ, cái gì cũng chờ cha mẹ lo cho
chứ không chịu ra ở riêng, không chịu bươn chải lo tự làm ăn đủ nuôi mình, nuôi
vợ con và còn đến lúc nuôi lại bố mẹ nữa chứ. “Bao” đến như thế thì, nếu
Nhà nước, hoặc chỉ một cơ quan của Nhà nước ngang cấp mình thôi, thậm chí
dưới cả cấp mình, có điều gì không đúng, thậm chí làm sai, đối với hoạt
động sáng tạo, thì làm sao mà còn dám nói lên tiếng nói trung thực
để bảo vệ ý tưởng tốt, nếu có, của mình và bảo vệ khát vọng sáng tạo của
nhà văn vào lúc gay cấn nhất và vào lúc các nhà văn cần đến tổ chức nghề
nghiệp của mình nhất? Chính vì vậy, không ít hội viên có đề nghị giải tán
Hội Nhà văn đi.
4.
Thay đổi gì?
Trong những dịp tâm sự riêng lẻ cũng như trên
không ít diễn đàn công khai, những gì cần thay đổi để văn học Việt
Nam có một chân dung sáng sủa hơn, để có những tác phẩm có giá trị hơn,
thực ra không khó để nhận thấy mà đã quá rõ ràng.
a.
Thực hiện dân chủ và ủng hộ khát vọng trong sáng tạo của nhà văn . Tôi,
Phạm Xuân Nguyên và Nguyễn Huy Thiệp đã có một cuộc chuyện trò khá lâu và
vui vẻ về hai nội dung này tại nhà riêng của Nguyễn Huy Thiệp trong
một cái ngõ rất lắt léo mạn Khương Hạ. Chúng tôi vừa lai rai rượu Tây với mấy
món ăn do Thiệp vừa đi chợ về và tự tay nấu nướng vừa bàn thảo rôm
rả. Dĩ nhiên Nguyên luôn là anh chàng sôi sục, Thiệp thì từ tốn nói và
cười mỉm, thỉnh thoảng “đá” vào vài tiếng nói lắp “làm duyên”,
nhưng cả hai đều quyết liệt và rõ ràng. Chúng tôi đều thấy rằng,
dân chủ là điều kiện quan trọng số một để có tự do sáng tạo của nhà văn
và từ đó, mới có thể có những tác phẩm phản ảnh đúng thực trạng xã
hội, phản ánh đúng số phận và khát vọng của con người. Đối với những nhà
văn có tài thì điều đó vẫn rất quan trọng bởi vì những tìm tòi sáng
tạo của họ thường rất dễ vượt ra ngoài khuôn khổ áp đặt của những tư duy chật
hẹp. Tôi cho rằng, đỉnh núi là nơi cao nhất không dễ ai cũng leo
lên được, nhưng cũng là nơi bắt đầu của cái đà lao xuống vực thẳm, mà
khoảng cách của hai thái cực này nhiều lúc chỉ là vài ba mét vuông trên
đỉnh núi đó. Người giám khảo giỏi phải có chỗ đứng cao hơn đỉnh núi
hoặc chí ít cũng ngang đỉnh núi để có thể nhìn thấy kỷ lục này mà trao
giải vô địch cho người leo núi kia. Nhưng nếu đứng thấp, thậm chí quá
thấp, thì không thể thấy được kỷ lục vừa lập mà nguy hiểm hơn, lại cho
rằng người leo núi đã bắt đầu lao xuống vực. Thiệp cười hì hì rồi lấy một
ví dụ nữa rất hay: Cái thằng cầu thủ giỏi, có kỹ thuật khéo léo mới hay
dẫn bóng chạy vù vù nơi đường biên, là nơi đối phương dễ nhầm là bóng đã
ở ngoài sân, chỉ cần đối phương chần chừ một vài giây là chết mẹ với nó
rồi, nó a lê kéo bóng tuốt xuống và tạt vào cầu môn! Lúc ấy mà tay trọng
tài gà mờ cứ thấy bóng mới chạm tới đường biên, chưa qua nửa vạch,
mà đã cho rằng bóng đã ở ngoài sân, lập tức toét còi thì giết chết hết mấy
thằng “siêu” này rồi chứ gì nữa! Chúng tôi thử nhẩm sơ qua những nhà văn
bị “trọng tài” thổi còi, từ “nhắc nhở” cho đến thẻ vàng, thẻ đỏ và sau đó còn
có người bị treo giò vài ba trận, thậm chí treo giò cả đời thì thấy ôi
chao!
La
liệt người tài trong số đó: Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Văn Cao, Hữu Loan,
Phùng Quán, Nguyền Đình Thi, Nguyễn Công Hoan, Hà Minh Tuân, Nguyên Ngọc,
Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Bùi Ngọc Tấn, Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân,
Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật, Tô Nhuận Vỹ, Trần Vàng Sao, Thanh Thảo, Bùi
Minh Quốc, Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương, Nguyễn \Trọng Tạo, Nguyễn Huy
Thiệp, Phạm Xuân Nguyên, Tạ Duy Anh… Tôi nhớ anh Nguyễn Minh Châu kể câu
chuyện có một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên giữa đám đàn em: “Tao
còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ là nhờ biết sợ!”. Nói rồi ngửa mặt
lên trời cười rung giường, nước mắt tuôn lã chã, giọt đổ xuống đất, giọt
đổ vào lòng! Và Nguyễn Minh Châu, con người vốn ít nói, ít to tiếng đã
phải kêu lên: “Tôi cũng phải nói rằng, sự độc đoán và chế áp của lãnh đạo
văn nghệ trong nhiều năm qua đã khiến cho những nghệ sĩ chân chính luôn luôn
gắn bó với cách mạng, với Đảng, suốt đời cảm thấy phạm tội” 3.
Nguyên Ngọc cũng chua xót: “Đọc Pasternak,
tôi thấy bi kịch Zhivago vẫn là của một người đứng ngoài, đứng trên
cả nước Nga mà đau. Còn bi kịch của tôi: một người trong cuộc, đảng viên,
cầm súng, nhiệt tình xây dựng chủ nghĩa xã hội mấy mươi năm. Thế mà tại
sao tình yêu của chính mình lại bị dày đạp đến như vậy.”4
Những
người đau đớn như thế, biết bao nhà văn như thế, toàn là người tử tế cả.
Đã là nhà văn chân chính có ai không yêu đất nước, không yêu nhân dân,
không tôn trọng sự thực, không trọng lẽ công bằng, có ai không tử tế (Đạo
diễn Trần Văn Thuỷ, tác giả phim xuất sắc Chuyện tử tế cũng nhiều lần bày
tỏ với tôi suy nghĩ này). Thậm chí có người tốt đến mức “không chịu
được”. Như Phùng Quán chẳng hạn. Tôi muốn nhân dịp này công bố một câu
chuyện “tốt không chịu được” của anh, qua một bức thư anh gửi tôi. Chỉ có
thể trích nguyên văn, để nguyên cả những chỗ sai chính tả, một số đoạn
trong lá thư dài mười bốn trang viết bằng bút lá tre, chấm mực xanh
Hồng Hà mà nay đã trở màu đen, trên giấy làm đâu miệt Thuỵ Khuê,
vàng khè:
-------------
Hà Nội đêm cuối thu 84,
Tô
Nhuận Vỹ thân,
Tôi nhận được thư Vỹ, đã hai lần tôi viết thư trả lời,
nhưng đọc lại tôi lại xé đi. Vì muốn trả lời một bức thư như vậy
thật không đơn giản chút nào. Vì tôi nghĩ đó không chỉ thuần là một thư
của tình bạn, mà còn là bức thư của một nhà văn gửi cho một nhà văn…
Anh trả lời bức thư đề nghị anh cho phép phục
hồi bút danh Phùng Quán trên tạp chí Sông Hương trước đó của tôi. Trước
khi viết bức thư đề nghị này, tôi vừa đọc xong tập truyện Dũng sĩ Chép
Còm mà anh ký tên là Trần Vĩ Dạ, do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành. Anh tặng Tô
Diệu Lan, là con gái thứ hai của chúng tôi, nhân ngày sinh của cháu, với
lời đề “Thân yêu tặng cháu Diệu Lan cuốn sách quý nhất đời của
bác”. Tôi đọc cuốn sách với cái tên Trần Vĩ Dạ mà lòng đau như cắt. Tôi
viết bức thư và tin rằng anh sẽ đồng ý bởi không khí đổi mới đã bắt đầu
cựa quậy trong xã hội, bởi vì đó là một điều tuyệt vời đối với Sông Hương
nhưng cũng là chuyện tốt đẹp đối với cái tên anh đã bị chôn vùi mấy chục
năm trời chỉ vì những vần thơ gan ruột và nghĩa khí của anh. Vậy mà anh
từ chối!
Ba mươi năm đã trôi qua. Biết bao nhiêu sự kiện đã
rêu phong. Và tôi cũng không còn được chính quyền của Đất nước (mà
tôi đã hiến dâng cả tuổi trẻ và cả máu để góp phần nhỏ bé xây dựng và bảo
vệ) coi tôi là nhà văn. Tôi đã bị “tướt quyền viết văn” (tháng 3/1958 Hội
Nhà văn quyết định khai trừ tôi vĩnh viễn tôi khỏi Hội Nhà văn) từ khi
tôi mới hai mươi bốn tuổi đầu - đến nay tôi đã năm mươi tư tuổi rồi 15. Tôi
chắc Vỹ hiểu còn hơn cả tôi, ở đất nước ta bị khai trừ vĩnh viễn khỏi Hội Nhà
văn, thì một nhà văn sẽ rơi vào một hoàn cảnh bi thảm như thế nào.
Vì mặt trận văn nghệ là một trong những mặt trận được chuyên chính nghiêm nhặt
nhất. Tôi vẫn ví nhà văn là một cầu thủ đá bóng. Và cả Đất nước chỉ có
một sân cỏ mà thôi - đó là Hội Nhà văn Việt Nam . Vỹ thử tưởng tượng một cầu thủ
bị đuổi khỏi sân cỏ suốt ba mươi năm - thì cầu thủ đó sẽ hoá thành người
như thế nào? Sau ba mươi năm, nếu cầu thủ đó không quên quả bóng đã
là chuyện lạ. Và nếu anh ta không còn đá được nữa thì lỗi đó thuộc về
ai?... Tôi rất xúc động trước tình âu yếm của bạn bè, đặc biệt là với các anh
chị ở Tạp chí Sông Hương muốn in thơ tôi với cái tên Phùng Quán“trở lại
với làng văn”. Nhưng mong các bạn hiểu cho tôi. Năm nay tôi đã năm mươi
tư tuổi. Tôi đã đi gần trọn một đời văn. Tôi không muốn thêm gì và bớt gì
(Phùng Quán gạch chân bốn chữ thêm gì và bớt gì – Tô Nhuận Vỹ) những gì tôi đã
làm, đã viết. Tôi không thuộc vào loại các nhà văn cùng thế hệ và tuổi tác với
tôi, bằng mọi cách và mọi giá, đeo đẳng cho bằng được cái tên mình
trên báo, trên sách…
... Nước Sở có người họ Hoà, được một
hòn ngọc ở trong núi, đem dâng vua Lệ-vương. Vua sai thợ ngọc xem,
thợ ngọc nói “Đó không phải ngọc”. Vua cho người họ Hoà nói dối,
sai chặt chân trái. Đến khi vua Vũ vương nối ngôi, người họ Hoà lại đem ngọc ấy
dâng. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói “Đó không phải ngọc”, vua lại cho họ
Hoà là nói dối, sai chặt nốt chân phải. Đến khi vua Văn vương lên ngôi,
người họ Hoà ôm hòn ngọc, khóc ở chân núi Sở-sơn suốt ba ngày ba đêm đến chảy
máu mắt ra. Vua thấy thế sai người đến hỏi. Người họ Hoà thưa: “Tôi khóc
không phải vì hai chân tôi bị chặt, chỉ thương vì nỗi ngọc mà cho là đá, nói
thật mà cho là nói dối”. Vua bèn sai người xem lại cho kỹ, thì quả nhiên là
ngọc thật, mới đặt tên ngọc là “ngọc bích họ Hoà”. Mỗi nghệ sĩ chân chính đều
có một “ngọc bích họ Hoà” của mình để dâng hiến cho Đất nước, Nhân dân. Nhưng
tôi vô cùng hối hận là đã không đủ lòng tận trung như người họ Hoà để dâng
“ngọc bích” của mình lên Đảng, cho đến lúc được nhận ra không phải đó mà ngọc
thật (Phùng Quán sót mấy chữ là ngọc giả) 5.
Lê Đạt kể lại rằng, Hội Nhà văn khai trừ ra khỏi
Hội ba năm đối với các anh Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác; hai
năm đối với Hoàng Cầm; một năm đối với Phùng Quán. Có lẽ 30 năm mà anh
Phùng Quán nói ở đây là 30 năm bút danh Phùng Quán không được xuất hiện trên
văn đàn
Người như thế, người “yêu Đảng hơn cả Đảng” như
thế mà bị chà xát mấy chục năm trời, ôi chao ôi là trời!
Vừa
qua, Giải thưởng Nhà nước đã được trao cho Phùng Quán, Hoàng Cầm, Lê Đạt. Tôi
cho rằng chậm còn hơn không. Nhưng có một cái gì không đàng hoàng, thật ú
ớ trong chuyện này. Không một lời nào, không một câu nào, dù ở đâu đó, dù
của một ai “bán chính thức” đó, ngay như của chỉ Hội Nhà văn, rằng đối xử
trước đây đối với họ là SAI, là SAI LẦM. Không. Không một lời. Không một
ai. Nói như Nguyễn Trọng Tạo: “Họ không sửa sai. Tức là họ nói: chúng tôi
không sai. Nhưng chúng tôi tặng thưởng. Như thế là một nhà nước không đủ can
đảm để nói lên một sự thật.
Không sòng
phẳng…”6
. Dĩ nhiên, “chưa có một nhà văn nào trên thế giới
tuyên bố rằng mình hoàn toàn tự do… Ở các quốc gia dân chủ phương Tây
người ta cũng chất đầy ngăn kéo những trang không được xuất bản” như Phạm
Thị Hoài khẳng định 7. Nhật Tiến cho biết, trong một lá thư gửi từ trong
nước, một nhà văn hỏi anh “ở hải ngoại các anh đã thực sự có tự do cầm
bút hay không?”, Nhật Tiến trả lời: “Tôi thấy rõ người cầm bút ở đây chưa
thực sự có tự do cầm bút”8. Để minh chứng cho câu trả lời, Nhật Tiến đã
mô tả những giới hạn của cộng đồng hải ngoại bị chi phối bởi những thành kiến,
những quan điểm chống cộng hẹp hòi mà không nhìn đến thực trạng của quê
hương.
Ngay như ở nước Mỹ, một người bạn nghiên cứu văn hoá
lâu năm nói với tôi, có tự do sáng tác không có nghĩa là có cùng cơ hội được
các cơ sở truyền thông “chính luồng” (mainstream) chú ý và thông tin quan
điểm của mình. Lấy tỷ dụ trường hợp của J. P. Sartre và Noam Chomsky. Có
thể nói cả hai đều là những đại trí thức cấp tiến trong xã hội mình đang sống,
phê bình nặng nề chính sách nhà nước, được cả thế giới ngưỡng mộ và lắng
nghe. Nhưng Sartre thời đó được báo chí và xã hội Pháp trân trọng tham khảo
trong khi Chomsky hoàn toàn bị giới truyền thông “chính luồng’’ ở Mỹ tẩy chay.
Chúng ta có thểcó tự do sáng tác, tự do ngôn luận, nhưng nếu các cơ sở truyền
thông đại chúng - báo chí, truyền thanh, truyền hình, v.v… - đều do một nhóm
tài phiệt khổng lồ làm chủ, thì những quan điểm “ngược dòng’’
sẽ hoàn toàn bị bỏ quên, hoặc vô hiệu hoá. Những tiếng nói đó sẽ không có người
nghe, trở thành những tiếng vang vọng trong sa mạc. Người bạn tôi coi đó
là một thứ kiểm duyệt cực kỳ tinh vi,“kiểm duyệt phi kiểm duyệt”, một loại cơ
cấu vô chiêu của chủ nghĩa đại công ty trị (corpocracy).
Và, tất nhiên, không phải cứ có tự do (khái niệm
như nhiều nhà văn trong và ngoài nước quan niệm hiện nay) thì lập
tức nhà văn đã có thể sáng tạo ra những tác phẩm xuất sắc. Tôi nhớ chuyện Thái
Bình. Trong những buổi chuyện trò thân tình với nhà văn Đức Hậu, người đã làm
Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật mười mấy năm ở đây, anh cho biết, sau những
vụ biểu tình, đấu tranh quyết liệt của nhân dân chống bọn tham nhũng và
ức hiếp nhân dân, đã từng có xu hướng đổ tội, đổ nguyên nhân của sự vụ
cho “bọn phản động”, nhưng Trung ương khẳng định đó là do hàng ngũ cán bộ
đã bị tha hoá, do nội bộ gây ra. Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười về họp với lãnh đạo
Thái Bình và ông đã phẫn nộ: “Những người đã cõng tôi qua sông khi Tây
vây tứ bề, đã có hàng vạn đứa con là thương binh, liệt sĩ trong hai
cuộc kháng chiến mà là địch à? Các anh ức hiếp, chà đạp người ta quá
trời, ai mà chịu nổi!” Ông phẫn nộ với đại ý như thế. Viết về vụ đó,
nguyên Tổng Bí thư đã “bật đèn xanh” như thế… vậy mà mấy năm đã
qua, chưa có một tác phẩm nào hay về cuộc đấu tranh này của nhân
dân Thái Bình. Cũng vào hôm làm việc với Hữu Thỉnh, anh kể chuyện tiếp nữ Chủ
tịch Hội Nhà văn Rumania. Bà ấy nói: “Khi đang còn chế độ độc tài
Ceaucescu vẫn có những tác phẩm xuất sắc như Nông dân, Giờ thứ 25
(Gheorghiu), còn bây giờ đã được tự do hoàn toàn lại chưa có những tác
phẩm gần như thế.” Điều đó vẫn đúng ngay ở các nước mà nền dân chủ
đã phát triển cao. Chị Thụy Khuê, một cây bút phê bình sắc sảo và hiểu
biết nhiều tình hình văn học trong và ngoài nước, đã cho rằng một trong
hai nhược điểm của văn học hải ngoại là: “... Chưa có thành tựu khai phá,
những chân trời nghệ thuật mới... Sự tiếp xúc với văn hoá Âu Mỹ dường như chỉ
mới rất hình thức... Không có một phong trào như Tự Lực, như Sáng Tạo.
Giá trị đổi mới văn thơ trong khoảng hai mươi năm gần đây đến từ những
tác giả trong nước: cựu Nhânvăn như Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng…, hoặc trẻ
hơn như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài.”9
Chúng tôi muốn nói rằng, theo chúng tôi, bên
cạnh tự do sáng tạo, nhà văn còn cần bản lĩnh, khát vọng. Không có
bản lĩnh và khát vọng (trong bản lĩnh bao hàm cả tài năng) thì, như “con gà
công nghiệp”, mở chuồng cho tự do ra ngoài vẫn cứ “tự giác” luẩn quẩn quanh cái
chuồng cũ kỹ. Về điều này, Phạm Xuân Nguyên cũng đã viết: “Nhiều
người đã nói đến sự cấm đoán, bắt bẻ, kiểm soát từ trên xuống đối với những người
viết. Nhưng có phải vì thế mà người cầm bút lại cho mình ‘được hèn’ để
viết xuôi chiều, dễ dãi không?…Ngẫm cho kỹ, toàn bộ tác phẩm Nam Cao viết về
người trí thức cũng chỉ xoay quanh một chủ đề duy nhất là căn bệnh
‘mình tự làm hèn mình’ của tầng lớp này… Vấn đề ở đây là bản lĩnh và tầm
vóc của người cầm bút, tức là nội lực chủ động của anh, chứ không
phải cứ thụ động ngồi chờ cái “hích” từ bên ngoài rồi khi được thì hoan hỉ tâng
bốc, khi không được thì trách móc đổ lỗi.”10
---------------------
Chú
thích :
1 Nguyễn Duy, Trả lời báo Thanh niên trước Đại
Hội Nhà văn lần thứ 7,http://vietbao.vn/Van-hoa/Khi-nha-van-tu-hoi-chinh-minh/40074698/105/.
2 Bùi Ngọc Tấn, Trả lời báo Thanh niên ngày 8/5/2005.
3 Nguyễn Minh Châu, “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai
đoạn văn nghệ minh hoạ”, Văn nghệ số 49-50, 5/12/1987.
4 “Gặp gỡ Nguyên Ngọc”, Sông Hương số tháng 6/1989.
5Phùng Quán, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ, cuối thu 1984.
6 “Mừng vui còn có hôm nay”, Talawas ngày 7/6/2007,http://www.talawas.org/talaDB/SôngHươngowFile.php?res=10124&rb=0101
7 Phạm Thị Hoài, “Hợp đồng ngầm với các con chữ”, http://www.nhanvan.com/phongvan/pvcuong_hoi_pthoai.htm
8 Nhật Tiến, Trả lời tại Washgington ngày 11/10/1985.
9 Thụy Khuê, “Thử tìm một lối tiếp cận văn học sử: hai
mươi
nhăm năm văn học hải ngoại 1975-2000” http://dactrung.net/baiviet/noidung.aspx?BaiID=Fw9VtoP4V8jqlObmtJfM9w%3d%3d.
10 Phạm Xuân Nguyên, “Cái hèn của người cầm bút”, Sông
Hương số 31.
>From: Nhà báo Võ Văn Tạo gửi BVB)
------------------
"Đổi mới" là cách gọi chệch của "Bế tắc"! Nên dùng từ "Thay đổi" - thay cái đang tồn tại nhưng rệu rã bằng một cái khác tốt hơn.
Trả lờiXóa"lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội" (theo điều 4 hiến pháp), không sợ các nhà văn, mà sợ XUẤT BẢN. Tác phẩm của nhà văn, cứ để trong nhà, trong đầu các nhà văn, thì không sao cả. Xuất bản được, công an, quân đội sẽ đọc và sẽ thay đổi.
Trả lờiXóaBạn thấy khẩu hiệu "Đảng lãnh đạo, nhà nuớc quản lý, nhân dân làm chủ" ra sao? Rất bóng bẩy, dân chủ, văn minh, lịch sự?
Trả lờiXóaNhưng làm sao lãnh đạo được ông chủ cả? Làm sao quản lý được kẻ lãnh đạo và ông chủ cả? Làm sao làm chủ được bố lãnh đạo và tên quản lý?
Vậy, khẩu hiệu này là ngớ ngẩn và mị dân (khu đen). Người bình thường nay thấy hết những khẩu hiệu kệch cỡm vô lý đùng đùng của tuyên giáo rồi!
Ngày bé tôi cũng rất hay đọc truyện dế mèn phưu lư ký ,được nghe cô giáo giảng văn học , nhưng đọc xong , nghe xong thấy long buồn vơi vợi lên sau này chán không muốn đọc nữa .....lớn lên tôi mới hiểu ra vì sao , vì : các nhà văn Việt Nam ác quá , chú dế mèn đi khắp nơi để rồi về gặp mẹ mà tác giả cũng không cho gặp dù chỉ là những hơi thở cuối cùng chước khi nhắm mắt ,
Trả lờiXóachị DẬU thì chạy ra trời tối đen như mực tác giả không thèm cho chị ấy nhìn thấy ánh sáng , dù chỉ cần môt ánh sao mờ ảo ở đâu đó cũng được .một anh CHí PHÈO thì nằm giẫy giụa trong vũng máu , THỊ NỞ thì nhìn ra cái lò gạch ....nhiều lúc tôi tự hỏi hay là các nhà văn họ gần quan hơn họ gần dân lên nó vậy ....?
Quỷ dữ không bao giờ dám soi gương, vì sợ thấy chính bộ mặt xấu xa của mình.
Trả lờiXóaBọn tham nhũng không bao giờ dám coi các trang lề trái...
Ông nội tôi sinh thời hay nói: "Thời thực dân Pháp, lương một công chức (người Việt) hạng thấp cũng nuôi cả nhà trên dưới 10 người thoải mái. Người ta xưng hô, đối xử với nhau rất lịch sự lễ phép, không du côn du kề như XHCN bây giờ."
Trả lờiXóaTrước đây, vào những năm 80-90 thế kỷ trước, có chương trình " Mười năm văn học nước ngoài". Gần như toàn bộ các tác phẩm xuất sắc của thế giới đã được xuất bản. Các nhà văn Việt Nam học theo và cũng đã có một số tác phẩm hay. Tiếc là mạch tư duy đó bị chững lại do những lực cản vô hình. Đến thời gian gần đây, xã hội bát nháo, quân hồi vô phèng, quan thì tham lam vô độ, dân thì MACKENO, nhà văn đa phần đòi dân chủ bằng hành động chứ không phải bằng ngòi bút,nên mọi người chán đọc. Hỡi các nhà văn, hãy viết đi. Ngắn dài không quan trọng, nếu đi vào lòng dân, các bạn sẽ sống mãi. Viết thì đừng sợ- sợ thì đừng viết.
Trả lờiXóaNhà văn nước ngoài họ sáng tác vì đại cuộc vì lý tưởng cao cả mang đậm tính nhân văn,nhân ái,lên án cái ác đề cao quyền con người...nhà văn ta vì bát cơm mà viết! Đó là lý do ta o có tác phẩm ra hồn.
Trả lờiXóaCái đám tự gọi là nhà văn nhà thơ XHCN chỉ là bọn "Chê món ngon của người khác, luôn khen cứt mình thơm!"
Trả lờiXóaKiểu:
"Yêu cha yêu mẹ yêu một
Yêu tên độc tài muời!"
"Thương biết mấy
Tiếng con gọi đầu đời
'Đ/c Xít diệt chủng'"?
Mấy ngài Chomsky và Sartre không cho xuất hiện ở dòng chính
Trả lờiXóacủa Mỹ mà còn than van nổi gì,không bị đày ải như Soljenitsyn
là đã may mắn lắm rồi !
"Được voi đòi tiên" nhưng chưa được voi một mảy may nào mà
làm bộ chê Mỹ được ư ? Chán !
"HÈN"- mà cầm bút, hãy thôi ngay!
Trả lờiXóaTrung - Chính nói - làm, đáng quý thay
Giá áo túi cơm mau quét sạch
Chạy, mua ghế, mác ắt lăn quay!